Trước khi các công nghệ siêu âm tiên tiến ra đời, giới tính của một đứa bé thường chỉ được xác định khi chào đời bằng cách quan sát bộ phận sinh dục của bé. Ngày nay, công nghệ hiện đại cho phép các bác sĩ có thể xác định giới tính thai nhi ngay tuần thứ 11 của thai kỳ, với độ chính xác khoảng 40-70% (tỷ lệ sẽ càng tăng ở những tuần tiếp theo). Tuy nhiên quá trình xác định giới tính thai nhi này về cơ bản vẫn dựa trên những quan sát về bộ phận sinh dục.
Vậy ngoài các đặc điểm cụ thể về ngoại hình, giới tính của con người còn có thể được xác định ở đâu? Một nhóm các nhà khoa học đã tìm thấy ít nhất 9 biểu hiện giới tính tồn tại trong não bộ của con người, thông qua việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích một bộ dữ liệu liên quan đến sự đa dạng về giới tính thu được từ 4 nhóm đối tượng chính: các cá nhân cisgender (nam và nữ - những người có bản sắc giới tính phù hợp với giới tính mà họ được chỉ định khi sinh), cũng như những người đã trải qua phẫu thuật xác định lại giới tính (cả nam thành nữ và nữ sang nam).
“Mục tiêu của chúng tôi là chứng minh rằng các phương pháp chụp ảnh não bộ đang được sử dụng phổ biến hiện nay hoàn toàn có khả năng chỉ ra những hiểu biết mới về sự khác biệt giới tính được biểu hiện trong não bộ”, Tiến sĩ Daniloo Bzdok, phó giáo sư kỹ thuật y sinh tại Đại học McGill, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết.
Các nhà khoa học đã sử dụng một thuật toán học máy đặc biệt để phân tích dữ liệu hình ảnh não bộ của 4 nhóm đối tượng giới tính chính, bao gồm nam, nữ, chuyển giới nam, và chuyển giới như, kết hợp với hồ sơ toàn diện về các đặc điểm hành vi giới tính rập khuôn. Thuật toán học máy đã xác định được ít nhất 9 biến thể (sự biến đổi) liên quan đến não bộ - giới tính của những người này. Nói một cách đơn giản, mỗi cá nhân trong nghiên cứu có thể phù hợp với 1 trong 9 biểu hiện của biến thể liên quan đến não bộ - giới tính này.
“Những phát hiện này sẽ có tác động quan trọng đến phong trào hướng tới cải thiện sự bình đẳng và đa dạng giới tính trên toàn thế giới. Bằng cách nâng cao nhận thức cho mọi người từ góc độ sinh học, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một xã hội nơi các cá nhân tự nhận mình ở giữa ranh giới của nam và nữ cảm thấy được hòa nhập, thay vì phân biệt đối xử”, Tiến sĩ Bzdok nói thêm.
Phát hiện mới này có thể làm suy yếu các luận cứ về giáo dục giới tính dựa trên sự khác biệt bẩm sinh giữa nam giới và nữ giới. Thậm chí, ngay cả khi các định nghĩa về giới tính được coi là một phạm trù xã hội.