Các thiết bị tay cầm chơi game (game controller) chắc hẳn là một món đồ quen thuộc, là một phần tuổi thơ của nhiều người trong số chúng ta. Khi ta còn bé, những chiếc tay cầm chơi game có thiết kế khá đơn giản, chỉ cần cắm vào đầu đĩa DVD hoặc máy chơi game dùng băng là có thể ngồi cả ngày mà không biết chán. Ngày nay, chúng ta sử dụng những tay cầm nhiều chức năng, chiến những game khủng với những dàn game console hiện đại, trước một màn hình tivi mỏng và sắc nét. Xét về mục đích sử dụng thì các loại tay cầm chơi game về cơ bản vẫn vậy, nhưng nếu phân tích đến kiểu dáng và công nghệ thì chúng thực sự đã có được những bước tiến rất lớn. Để hiểu rõ hơn về các thiết bị của “tuổi thơ dữ dội” này, hãy cùng điểm qua một chút về lịch sử hình thành và phát triển của game controller qua một số thiết bị điển hình nhé!
Magnavox Odyssey 100 (1972)
Magnavox Odyssey, được phát hành bởi Magnavox vào năm 1972, là chiếc máy chơi game gia đình đầu tiên trên thế giới. Được thiết kế bởi Ralph Baer và lần đầu tiên ra mắt công chúng vào ngày 24 tháng 5 năm 1972, nó được bán bởi Magnavox và các chi nhánh của công ty trong năm 1975. Odyssey sử dụng một loại thẻ bảng mạch in có thể tháo rời được chèn vào một khe cắm analog, cho phép người chơi chọn các trò chơi khác nhau.
Magnavox Odyssey 100 bao gồm một bàn điều khiển có kiểu dáng như một con dấu chạm khắc bằng đá cổ xưa, kết nối với bộ xử lý trung tâm bằng dây analog. Với 2 bàn quay số, một để điều khiển chuyển động ngang và một cho chuyển động dọc, người chơi có thể chơi được các game có chuyển động đơn giản như các game Tennis và Hockey, trong đó, mỗi người chơi có ba nút bấm cho chuyển động ngang, chuyển động thẳng đứng và điều chỉnh quỹ đạo bóng.
Magnavox Odyssey 100 (1972)
Bảng điều khiển chơi game Atari Home Pong là thiết bị điện tử thương mại được tích hợp một trong những con chip máy tính mạnh mẽ nhất vào thời điểm nó được ra mắt bởi hãng Sears vào năm 1975. Nguyên mẫu bao gồm một thiết bị gắn vào một bệ bằng gỗ có chứa hơn một trăm dây kết nối, và cuối cùng nó được thay thế bằng một con chip được thiết kế bởi Alcorn và Lee. Chip vẫn chưa được thử nghiệm và vẫn đang còn được phát triển trước khi nguyên mẫu được xây dựng. Chip này được hoàn thành vào nửa cuối năm 1974, và vào thời điểm đó, nó là con chip hoạt động tốt nhất được sử dụng trong một sản phẩm thương mại.
Các bộ điều khiển được tích hợp sẵn trong giao diện điều khiển, cho phép người chơi trượt Pong của họ lên xuống bằng cách xoay một mặt số.
Fairchild Channel F (1976)
Fairchild Channel F là một game console gia đình do Fairchild Semiconductor phát hành vào tháng 11 năm 1976 trên khắp Bắc Mỹ với mức giá bán lẻ là 169.95USD. Nó cũng được phát hành tại Nhật Bản vào tháng 10 năm sau đó. Fairchild Channel F có sự khác biệt ở việc nó game console đầu tiên có ROM, và sử dụng bộ vi xử lý.
Các tay cầm chơi game trên Fairchild Channel F có hình dạng là một tay nắm lớn với một "nắp" hình tam giác trên đầu. Phần này có thể di chuyển và điều khiển được với tám hướng khác nhau.
Coleco Telstar Arcade (1977)
Đây là một ví dụ điển hình về các tay cầm chơi game được tích hợp sẵn trong game console. Coleco Telstar Arcade là chiếc cuối cùng trong dòng sản phẩm của Pong được gọi là 'Telstar' và được sản xuất bởi Coleco từ năm 1976 đến năm 1978. Không giống như các thiết bị Telstar khác, Telstar Arcade sử dụng bộ xử lý được đặt trong một chiếc hộp hình tam giác để cho phép nó chơi nhiều trò chơi khác nhau.
Thiết kế của bảng điều khiển Arcade là hình tam giác. Các hộp chứa đĩa được kết nối theo chiều ngang đến đỉnh của bảng điều khiển, và chứa một bộ vi xử lý cũng như một lượng nhỏ ROM.
RCA Studio II (1977)
trong khi các máy chơi game thế hệ thứ hai khác đang được áp dụng những điều mới mẻ và táo bạo, thì RCA Studio II có vẻ như đã thực hiện một bước lùi. Studio II cũng không có cần điều khiển hoặc bộ điều khiển trò chơi tương tự nhưng thay vào đó sử dụng hai bàn phím mười nút được tích hợp sẵn trong bảng điều khiển, tương thích với năm trò chơi được cài sẵn. Bàn điều khiển có khả năng tạo ra âm thanh bíp đơn giản với có các thay đổi nhỏ về tông và độ dài. Studio II không phải là một sản phẩm thành công, nó đã bị ngừng sản xuất sau hai năm ra mắt.
Atari 2600 (1977)
Là một bộ game console tại nhà được sản xuất bởi Atari, Inc và phát hành vào ngày 11 tháng 9 năm 1977. Chiếc 2600 được trang bị hệ thống controller bao gồm hai cần điều khiển và một bộ điều khiển quay số cho các trò chơi dạng chèo thuyền hoặc lái xe. Thiết kế controller của Atari 2600 say này đã trở thành tiêu chuẩn công nghiệp.
Atari 5200 SuperSystem (1982)
Atari 5200 SuperSystem, thường được gọi là Atari 5200, là một thiết bị chơi game console được giới thiệu vào năm 1982 bởi Atari Inc, và là một bản nâng cấp đáng giá cho Atari 2600 vốn đã quá phổ biến trước đó.
Các bộ điều khiển của 5200 có một cần điều khiển tương tự Atari 2600 và thêm một bàn phím số cùng với các nút khởi động, tạm dừng và đặt lại. Một cải tiến khác là cần điều khiển này có thể gạt 360, qua đó cung cấp khả năng kiểm soát tốt hơn so với bộ điều khiển cần điều khiển tám chiều được của Atari 2600.
Casio PV1000 (1983)
PV-1000 là một bộ game console gia đình do Casio sản xuất và phát hành tại Nhật Bản vào năm 1983. PV-1000 được trang bị bộ vi xử lý Z80A và có RAM 2 KB, với 1 KB dành cho bộ tạo ký tự của nó. Nó có độ phân giải 256x192 pixel 8 màu sắc cơ bản. Cần điều khiển trên Casio PV1000 về hình dáng khá giống như của Atari 5200 nhưng được trang bị thêm các nút bấm trong cực “ngầu”, giống cần điều khiển của những chiếc máy bay chiến đấu phản lực.
Nintendo Entertainment System (1983)
The Nintendo Entertainment System (thường được viết tắt là NES) là một bộ game console gia đình 8 bit được phát triển và sản xuất bởi Nintendo. Ban đầu nó được phát hành tại Nhật Bản ngày 15 tháng 7 năm 1983 với tên gọi Family Computer, được biết đến với tên viết tắt là Famicom.
NES sau đó đã gây sốt trên toàn thế giới và trở thành một trong những thiết bị chơi game mang tính biểu tượng nhất mọi thời đại. Thiết kế cho bộ điều khiển NES được mượn chủ yếu từ dòng game & Watch cầm tay của Nintendo. Tay cầm NES có dạng giống viện gạch hình chữ nhật với bố trí bốn nút đơn giản: hai nút tròn có nhãn "A" và "B", nút "START" và nút "SELECT" bao gồm bên điều khiển bốn hướng, và bên còn lại là hai nút nhỏ. Thiết kế này cũng đã chứng minh được tính hiệu quả và được sử dụng cho đến tận ngày nay.
Sega Master System (1985)
Master System một bộ game console gia đình thế hệ thứ ba do Sega sản xuất. Nó được phát hành lần đầu vào năm 1985 với tên gọi Sega Mark III tại Nhật Bản. Sau khi được thiết kế lại trước khi ra mắt tại Bắc Mỹ, bảng điều khiển được đổi tên thành Hệ thống Master và được phát hành vào năm 1986 ở Bắc Mỹ, 1987 ở châu Âu và 1989 ở Brazil. Sự ra đời của Master System là một nỗ lực của Sega trong việc lật đổ sự thống trị của NES ở Bắc Mỹ và Nhật Bản, tuy nhiên, cho dù có đồ họa cao cấp và thiết kế bộ điều khiển tương tự nhưng Master System vẫn không thể đánh bại được nhà vô địch mang tính biểu tượng của Nintendo. Bộ điều khiển của Master System có 2 loại, một loại có cần điều khiển còn một loại không.
Tính đến năm 2015, Master System là game console tồn tại lâu nhất (30 năm và vẫn tiếp tục được sản xuất), do mức độ phổ biến quá cao của nó ở Brazil.
Sega Genesis/Mega Drive (1988)
Sega Genesis, được biết đến như là Mega Drive ở các khu vực bên ngoài Bắc Mỹ, là một bộ điều khiển trò chơi gia đình 16 bit được phát triển và bán bởi Sega. Genesis là giao diện thứ ba của Sega và là người kế nhiệm của Master System. Bộ điều khiển Sega Genesis/Mega Drive sở hữu một số thiết kế tiện dụng thực tế, ôm bàn tay hơn những tay cầm đến từ các đối thủ, và trông khá hiện đại với 4 nút điều hướng bên trái và 3 nút bấm A, B, C bên phải.
Commodore 64 Games System (1990)
Commodore 64 Games System được phát hành vào tháng 12 năm 1990 bởi Commodore vào một thị trường đang phát triển bùng nổ và bị chi phối bởi Nintendo và Sega là Châu Âu, do vậy Commodore 64 đã nhanh chóng chuốc lấy thất bại nặng nề. Tuy nhiên, một điểm cộng không thể không nhắc tới trên Commodore 64 là thiết kế xuất sắc của cần điều khiển: rất dễ thao tác và đặc biệt cho cảm giác cầm nắm rất tốt. Ngoài ra nó cũng có thể điều chỉnh được đa hướng.
Super Nintendo Entertainment System (1990)
Super Nintendo Entertainment System (viết tắt là Super NES hoặc SNES, và được rút gọn thành Super Nintendo) là một bộ điều khiển trò chơi 16 bit do Nintendo phát triển được phát hành vào năm 1990 tại Nhật Bản và Hàn Quốc.
SNES là một sự cải tiến, được ra đời nhằm tiếp nối sự thành công của NES trước đó và nó đã làm tốt hơn cả kỳ vọng. Thiết kế tay cầm của SNES một lần nữa lại nhận được thành công vang dội với bốn nút bấm dưới mỗi ngón tay cái và các nút hông cho ngón tay trỏ của người chơi - một cách bố trí rất thông minh. Nhờ vào sự thành công vang dội đó SNES được biết đến như một huyền thoại, là niềm mơ ước và là một phần ký ức của rất nhiều người.
Atari Jaguar (1993)
Atari Jaguar là một game console gia đình được phát triển bởi tập đoàn Atari. Atari Jaguar là console thế hệ thứ sáu được phát triển dưới thương hiệu Atari, ban đầu được phát hành ở Bắc Mỹ vào tháng 11 năm 1993. Đây cũng là giao diện điều khiển Atari cuối cùng sử dụng physical media. Điểm nổi bật trên controller của Atari Jaguar chính là một thiết kế “toàn nút là nút”.
Neo Geo CD là bộ điều khiển trò chơi gia đình thứ hai của SNK Corporation, phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 1994. Đây là một tay cầm đắt tiền mang lại những trải nghiệm điều khiển thú vị, chỉ có một phím điều khiển ôm ngón tay cái quen thuộc nhưng không có gì khó khăn cả. Thậm chí còn tạo nên sự thoải mái sau khi bạn đã chơi game được vài giờ.
Sony PlayStation (1994)
PlayStation (chính thức được viết tắt là PS, và thường được gọi là PS1 hoặc tên mã của nó, PSX) là một game console gia đình được phát triển và tiếp thị bởi Sony Computer Entertainment. Bản thương mại của PS1 được phát hành vào ngày 3 tháng 12 năm 1994 tại Nhật Bản. Có thể nói tay cầm điều khiển PlayStation của Sony là một thiết kế tuyệt vời. Được phát hành trong cùng năm với Sega Saturn, và khiến cho bộ điều khiển sáu nút của Sega trông giống như “con khủng long già mệt mỏi” vậy.
Một trong những yếu tố then chốt trong thành công của PlayStation là cách tiếp cận của Sony đối với các nhà phát triển bên thứ ba. Trong khi Sega và Nintendo thực hiện cách tiếp cận độc lập, tập trung vào phát triển bên thứ nhất. Vào cuối năm 1996, đã có khoảng 400 trò chơi phát triển cho PlayStation, so với khoảng 200 trò chơi phát triển cho Saturn và 60 cho Nintendo 64.
Apple Bandai Pippin (1995)
Apple Bandai Pippin, cách điệu PiP PiN, là một giao diện điều khiển công nghệ đa phương tiện, được thiết kế bởi Apple Computer. Console này dựa trên nền tảng Apple Pippin - một nhánh của nền tảng Apple Macintosh. Tuy nhiên, console của Apple chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, một phần nhờ mức giá khởi điểm trên trời của nó: 599 USE. Công bằng mà nói thì tay cầm của Pippin có thiết kế khá đẹp và độc. Một điểm cộng nữa là có con lăn điều hướng tròn ở chính giữa tay cầm, còn lại các nút bấm cũng không có gì quá nổi trội.
Nintendo 64 (1996)
Nintendo 64 được cách điệu là NINTENDO64 và viết tắt là N64, là bộ điều khiển trò chơi gia đình thế hệ thứ ba của Nintendo dành cho thị trường quốc tế. Được đặt tên theo đơn bộ xử lý trung tâm 64 bit, nó được phát hành vào tháng 6 năm 1996 tại Nhật Bản.
Khi Nintendo công bố người kế nhiệm cho SNES, không ai nghĩ rằng console này lại kèm với một bộ điều khiển “dị” như thế này. Ba ngạnh, được trang bị với một nút kích hoạt và hai nút hông, một D-pad và một cần điều khiển ở giữa. Tuy xét về công năng sử dụng thì thiết kế này cũng cho một trải nghiệm khá tốt.
Sony PlayStation DualShock (1997)
DualShock là một dòng sản phẩm gamepad có khả năng phản hồi rung và điều khiển analog do Sony Interactive Entertainment phát triển cho hệ thống PlayStation. DualShock được giới thiệu tại Nhật vào cuối năm 1997 và được tung ra thị trường Bắc Mỹ vào tháng 5 năm 1998. Lần đầu tiên được giới thiệu như một thiết bị ngoại vi phụ cho PlayStation gốc, một phiên bản cập nhật của bộ điều khiển PlayStation
Bạn đan tìm kiếm một chiếc tay cầm chơi game vĩ đại nhất mọi thời đại? DualShock là một cái tên sáng giá. DualShock đã trở thành chuẩn mực của thiết kế của các thế hệ tay cầm chơi game sau này. Các thiết bị thế hệ sau gần như chỉ cố gắng hoàn thiện thiết kế của Sony mà thôi. Thoải mái chính là yếu tố được đánh giá cao nhất trên tay cầm DualShock. Tính đến năm 2008, đã có hơn 28 triệu bộ điều khiển DualShock được bán ra trên toàn thế giới.
Sega Dreamcast (1998)
Dreamcast là một game console gia đình do Sega phát hành vào ngày 27 tháng 11 năm 1998 tại Nhật Bản, ngày 9 tháng 9 năm 1999 ở Bắc Mỹ và ngày 14 tháng 10 năm 1999 ở châu Âu. Dreamcast là chiếc console cuối cùng của Sega, đánh dấu sự kết thúc của công ty trên thị trường game console sau 18 năm.
Dreamcast chính là thiết bị mở ra thế hệ thứ 6 của game console. Tuy nhiên, thiết kế tay cầm của Dreamcast không có gì quá nổi trội và có lẽ đây chính là lý do kiến nó bị tụt lại so với các đối thủ.
Nintendo GameCube (2001)
GameCube được ra mắt năm 2011 ở Nhận Bản và đóng vai trò là người kế thừa cho Nintendo 64 và cạnh tranh trực tiếp với PlayStation 2 của Sony cũng như Xbox của Microsoft. GameCube là console đầu tiên của Nintendo sử dụng đĩa quang làm phương tiện lưu trữ chính. Các đĩa này ở định dạng miniDVD.
Điểm nổi bật trên tay cầm của Nintendo GameCube là sự thay đổi tinh tế của nó dựa trên cảm hứng từ Dualshock của Sony. Trong khi Nintendo dường như thừa nhận rằng thiết kế “tay lái” truyền thống mang lại trải nghiệm chơi game tốt hơn trên bộ điều khiển N64, các nhà thiết kế cảm thấy rằng cần điều khiển bên trái được đặt trực tiếp dưới ngón cái, giữ cho nó phù hợp với các nút chính đẹp lại trải nghiệm sử dụng tốt hơn. Hơn nữa, màu sắc của các tay cầm này cũng rất bắt mắt.
Microsoft's Xbox (2001)
Xbox là một game console gia đình được sản xuất bởi Microsoft. Nó được phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2001 tại Bắc Mỹ. Tay cầm gốc của Xbox có thiết kế khá lớn, có hai thanh analog, một bàn di cảm ứng lực, hai nút kích hoạt analog, nút Back, nút Start, hai khe cắm phụ kiện và sáu nút tác vụ analog 8 bit (A - xanh lục, B - đỏ, X - xanh lam, Y - vàng, và 2 nút đen trắng nhỏ trên cùng. Nó còn được trao giải "Blunder of the Year" của Game Informer năm 2001, kỷ lục Guinness cho tay cầm chơi game lớn nhất trong Guinness World Records Gamer Edition 2008, và được xếp hạng là bộ điều khiển trò chơi video tồi tệ nhất từ trước tới nay bởi biên tập viên IGN Craig Harris.
Nintendo Wiimote và nunchuck (2006)
Wiimote, là bộ điều khiển chính cho console Wii của Nintendo. Một trong những tính năng chính của Wii Remote là khả năng cảm biến chuyển động của nó, cho phép người dùng tương tác và thao tác các mục trên màn hình thông qua nhận dạng cử chỉ qua việc sử dụng công nghệ cảm biến gia tốc và quang học. Một tính năng khác là khả năng mở rộng của nó thông qua việc sử dụng các phụ kiện đi kèm. Các phụ kiện đi kèm với Wiimote được gọi là Nunchuk. Đây là một trong những tay cầm chơi game bán chạy nhất mọi thời đại. Nó có nhiều tính năng độc đáo mà nhờ đó game thủ có thể tương tác với các trò chơi tốt hơn. Tất cả các yêu cầu điều khiển cần thiết đều có: phím điều khiển, con trỏ, cần gạt.
Microsoft Xbox 360 (2005)
Xbox 360 là một game console được phát triển bởi Microsoft. Là người kế nhiệm Xbox 2001, nó là thế hệ thứ 2 trong loạt sản phẩm Xbox. Nó cạnh tranh với PlayStation 3 của Sony và Wii của Nintendo, và là một phần của game console thế hệ thứ bảy. Xbox 360 đã được chính thức công bố trên MTV vào ngày 12 tháng 5 năm 2005, với thông tin chi tiết về việc ra mắt và được công bố vào cuối tháng đó tại hội chợ E3 năm 2005.
Trên thực tế những nhược điểm trên tay cầm ở thế hệ đầu tiên như kích thước quá khổ đã được Microsoft khắc phục đáng kể, khiến cho Xbox 360 trở thành một thiết bị đáng trải nghiệm hơn rất nhiều.
Microsoft Kinect (2010)
Giữ kỷ lục cho "thiết bị điện tử tiêu dùng bán chạy nhất", Kinect chỉ là một trong những thiết bị bổ sung mở rộng mà Microsoft đưa ra cho Xbox 360 trong một nỗ lực dành lại thị phần từ Wii của Nintendo.
Kinect là một dòng thiết bị cảm ứng chuyển động được sản xuất bởi Microsoft cho các máy chơi game Xbox 360 và Xbox One và các máy tính Microsoft Windows. Dựa trên một thiết bị ngoại vi tiện ích kiểu webcam, nó cho phép người dùng điều khiển và tương tác với console hay máy tính của họ mà không cần bộ điều khiển, chỉ cần thông qua giao diện người dùng tự nhiên sử dụng cử chỉ và lệnh nói. Kinect là một trong những bộ điều khiển quan trọng nhất từng được Microsoft chế tạo.
Nintendo Wii U Gamepad (2012)
Wii U là người kế thừa của Wii. Game console này được phát hành vào tháng 11 năm 2012 và là bàn điều khiển trò chơi điện tử thế hệ thứ tám đầu tiên. Vào thời điểm ra mắt, nó cạnh tranh trực tiếp với PlayStation 4 của Sony và Xbox One của Microsoft.
Wii U là console đầu tiên của Nintendo hỗ trợ đồ họa HD. Bộ điều khiển chính của hệ thống là Wii U GamePad, có màn hình cảm ứng và kết hợp cùng các nút định hướng, cần điều khiển và các nút tác vụ.
Microsoft Xbox One (2013)
Xbox One là dòng game console gia đình thế hệ thứ tám và là phiên bản kế nhiệm của Xbox 360, được ra mắt vào tháng 11 năm 2013. Microsoft đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu ra một thiết bị có thể thay thế cho Xbox 360 và họ đã đạt được những thành công nhất định. Về thiết kế thì không có quá nhiều sự khác biệt nhưng Xbox One lại đi kèm với khá nhiều tinh chỉnh. Pin đã được lược bỏ, tính năng rumble đã được tăng cường.
Sony PlayStation DualShock 4 (2013)
PlayStation 4 (PS4), một cái tên đã quá nổi tiếng, có gì hơn so với người tiền nhiệm của mình là PS3? Đầu tiên là trọng lượng đã được cải thiện rõ rệt, thiết kế bóng bẩy hơn, và cảm giác cầm nắm thoải mái hơn. Ngoài ra, một trong những bổ sung quan trọng nhất là một touch pad cảm ứng điện dung đã được tích hợp. Touch pad cảm ứng nhạy cảm này có thể hỗ trợ cho các game thủ, giúp các thao tác của họ dễ dàng hơn rất nhiều.
Xbox One Elite (2015)
Có thể nói Xbox One Elite đã định nghĩa lại về việc thiết kế tay cầm chơi game. Nhiều người nói rằng sau khi sử dụng tay cầm trên Xbox One Elite, họ không còn muốn chơi game console và hầu hết các game PC với bất kỳ thứ gì khác ngoài Elite nữa. Nó được làm từ các nguyên liệu chất lượng cao, và bạn có thể cảm thấy được sự thoải mái ngay từ lần đầu tiên nắm lấy nó. Các miếng nhựa cho cảm giác trơn tru, nắm cao su ở phía sau cung cấp đủ ma sát để giúp bạn giữ cho gamepad an toàn mà không cần phải cầm chặt. Các nút cũng rất tuyệt vời. Khi nhất nút, bạn có thể cảm thấy sự chắc nịch và độ nảy rất tốt. Bàn cảm ứng cũng rất nhay. Điểm cộng lớn nhất của tay cầm trên Xbox One Elite có hỗ trợ kết nối không dây, giúp di động hóa một cách tối đa việc chơi game trên các thiết bị tại nhà.
Trên đây là những nét phác họa tóm tắt về lịch sử phát triển của các thiết bị game console cũng như tay cầm chơi game. Chúc các bạn chọn được cho mình những thiết bị chơi game ưng ý!
Xem thêm: