Muối, gia vị quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của con người. Tuy nhiên, cái gì nhiều cũng không tốt và muối cũng vậy, việc thừa muối sẽ khiến cơ thể con người phải đối mặt với nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, khoảng 90% người Việt ăn thừa muối. Mức tiêu thụ muối trung bình của mỗi người Việt là 9,4 gam/một ngày, trong đó nữ 8,3g và nam 10,5g, cao gấp 2 lần so với tiêu chuẩn.
Dưới đây là một số mối nguy hiểm người Việt phải đối mặt do ăn quá mặn.
Tim mạch
Nồng độ muối trong cơ thể là ổn định, việc ăn nhiều muối sẽ tăng áp lực thẩm thấu trong máu. Khi ăn mặn, con người sẽ cảm thấy khát nước và uống nước. Điều này khiến dung lượng máu tăng, áp lực lên thành mạch cũng tăng khiến tim phải hoạt động nhiều hơn.
Đối với những người bị tăng huyết áp, ăn mặn có thể khiến nguy cơ mắc các vấn đề như đột quỵ, suy gan, suy thận, suy tim tăng cao.
Người cao tuổi ăn mặn rất nguy hiểm, dễ tạo thành cao huyết áp, ảnh hưởng chức năng tim, thận.
Trẻ nhỏ ăn mặn sớm sẽ ảnh hưởng tới huyết áp, tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh lý khác.
Thận
Ăn nhiều muối khiến chúng ta phải uống vào 1 lượng nước lớn để giải khát. Điều này khiến thận phải làm việc nhiều hơn để lọc máu, cơ thể sẽ phải tăng đào thải natri qua nước tiểu dẫn tới việc một số khoáng chất quan trọng như kali, canxi bị mất đi và gây ra một số bệnh về thận như sỏi thận, giảm chức năng thận.
Xương
Ăn mặn khiến cơ thể thừa muối, quá trình đào thải canxi qua nước tiểu tăng có thể dẫn tới nguy cơ loãng xương.
Dạ dày
So với người thường, người ăn nhiều muối sẽ có nguy cơ mắc bệnh viêm loét dạ dày cao hơn bởi ăn mặn gây tổn thương cho lớp màng bảo vệ niêm mạc dạ dày và tăng sự phát triển của vi khuẩn có hại. Ăn mặn và chua thường xuyên sẽ khiến người đã bị viêm loét dạ dày do vi khuẩn HP có nguy cơ biến chứng nguy hiểm cao.
Ăn bao nhiêu muối mỗi ngày là đủ?
Theo khuyến cáo của WHO, mỗi người trưởng thành không nên ăn quá 5 gram muối/ngày (tương đương một thìa cà phê). Lượng muối này vừa đủ để cơ thể con người hấp thụ, giúp phòng, chống nhiều bệnh như tăng huyết áp, đột quỵ, tim mạch, ung thư và một số bệnh không lây nhiễm khác.