Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã trao quyền cho người tiêu dùng sử dụng nội dung kỹ thuật số theo những cách thức mới và sáng tạo của riêng mình, nhưng cũng khiến chủ sở hữu bản quyền gần như không thể kiểm soát được việc tài sản chất xám của họ đang bị phân phối một cách tràn lan, bất hợp pháp, hay nói cách khác, bản quyền của họ đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Các tài sản chất xám không chỉ là âm nhạc, mà còn là phim ảnh, trò chơi điện tử và bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác có thể được số hoá và truyền đi theo nhiều hình thức khác nhau (chủ yếu qua chia sẻ trái phép trên Internet).
DRM là gì?
DRM (Digital rights management) - Quản lý bản quyền nội dung số là một chuỗi các công nghệ kiểm soát truy cập nhằm hạn chế vi phạm về quyền sở hữu các nội dung số có bản quyền. Nói một cách dễ hiểu hơn, DRM được sinh ra để kiểm soát những gì mà người dùng có thể làm với các nội dung số. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu xem DRM là gì, chủ sở hữu bản quyền đang triển khai khái niệm này như thế nào và cần phải làm những gì trong tương lai để kiểm soát nội dung kỹ thuật số tốt hơn.
Nhìn chung, quản lý bản quyền nội dung số là một thuật ngữ sâu rộng liên quan đến tất cả các chương trình được thiết kế nhằm kiểm soát quyền truy cập vào các tài liệu có bản quyền bằng các phương tiện công nghệ. Về bản chất, DRM thay thế khả năng kiểm soát bản quyền vốn đã rất thụ động và kém hiệu quả từ chính người chủ sở hữu nội dung kỹ thuật số và đặt nội dung kỹ thuật số đó dưới sự kiểm soát của một chương trình máy tính. Các ứng dụng và phương pháp quản lý bản quyền nội dung số là vô tận, dưới đây chỉ là một vài ví dụ điển hình về quản lý bản quyền nội dung số để bạn tham khảo và có được một cái nhìn khái quát hơn:
- Một công ty đặt các máy chủ của mình để ngăn chặn việc chuyển tiếp các email nhạy cảm của nhân viên.
- Máy chủ thư viện sách điện tử hạn chế quyền truy cập, sao chép và in tài liệu của người dùng dựa trên các ràng buộc do người giữ bản quyền của nội dung đặt ra.
- Một studio phim đính kèm một phần mềm lên đĩa DVD để ngăn chặn việc người dùng có thể tạo bản sao một bản sao thứ hai từ đĩa DVD đó.
- Một hãng sản xuất nhạc phát hành các tiêu đề trên một loại đĩa CD, đi kèm với các bit thông tin nhằm mục đích làm xáo trộn phần mềm trích xuất.
Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng các phương pháp DRM đôi khi quá nghiêm ngặt, đặc biệt là các phương pháp được sử dụng trong ngành công nghiệp điện ảnh và âm nhạc, nhưng triển khai quản lý bản quyền nội dung số cũng là một vấn đề nên làm để hướng người tiêu dùng đến những cách sử dụng bản quyền văn minh hơn. Việc phân phối nội dung kỹ thuật số qua Internet thông qua mạng lưới chia sẻ các tệp đã làm cho luật bản quyền truyền thống trở nên lỗi thời trong thực tế vận hành. Ví dụ, mỗi khi ai đó tải xuống một tệp MP3 của một bài hát có bản quyền từ một mạng chia sẻ tệp miễn phí thay vì mua đĩa CD, nhãn nhạc sở hữu bản quyền và nghệ sĩ đã sáng tác ra bài hát không nhận được bất cứ khoản tiền nào mà đáng ra họ phải được nhận.Trong trường hợp của ngành công nghiệp điện ảnh, một vài nghiên cứu đã ước tính tổn thất doanh thu từ việc phân phối bất hợp pháp những nội dung DVD rơi vào khoảng 5 tỷ đô la một năm. Bản chất của việc chia sẻ thông tin trên Internet khiến cho việc khởi kiện từng cá nhân vi phạm luật theo cách này là không thực tế, vì vậy các công ty đang cố giành lại quyền kiểm soát phân phối bản quyền của họ bằng cách khiến người tiêu dùng không thể thực hiện sao chép hay chia sẻ trái phép các nội dung kỹ thuật số.
Vấn đề là ở chỗ khi bạn đã mua một đĩa DVD, có nghĩa là sản phẩm đó đã thuộc về bạn, bạn sẽ có toàn quyền hợp pháp để có thể tạo một bản sao của nó để phục vụ mục đích sử dụng riêng của mình. Đây là ý chính của quy định về giấy phép sử dụng hợp lý (fair use) trong luật bản quyền, trong khi có một số trường hợp cụ thể lại phủ nhận bảo vệ bản quyền có lợi cho người dùng nội dung, bao gồm sao chép tài liệu được bảo vệ để sử dụng cho mục đích cá nhân và sao chép bất kỳ nội dung nào trong miền công cộng. Hầu hết các chương trình quản lý bản quyền nội dung số đều không thể xem xét đến kĩ đến tất cả các trường hợp fair use vì chương trình máy tính sẽ không thể đưa ra các quyết định chủ quan. Trước khi chúng ta tiếp tục tranh luận về DRM, hãy lùi lại một bước và tìm hiểu xem chương trình DRM đòi hỏi gì từ quan điểm lập trình.
Cấu trúc của DRM
Một hệ thống DRM lý tưởng là phải bảo đảm được tính linh hoạt, hoàn toàn minh bạch đối với người dùng và những rào cản phức tạp để ngăn chặn việc sử dụng bản quyền trái phép. Các phần mềm DRM thế hệ thứ nhất gần như chỉ tìm cách kiểm soát việc sao chép trái phép. Trong khi các chương trình DRM thế hệ thứ hai, lại chú trọng vào việc tìm cách kiểm soát việc xem, sao chép, in ấn, thay đổi và mọi thứ khác mà người dùng có thể thực hiện đối với một nội dung kỹ thuật số.
Một chương trình quản lý quyền các nội dung số sẽ hoạt động trên ba cấp độ, đó là:
- Thiết lập bản quyền cho một phần nội dung.
- Quản lý việc phân phối nội dung có bản quyền đó
- Kiểm soát những gì người tiêu dùng có thể thực hiện với nội dung đó sau khi được phân phối.
Để đạt được những cấp độ kiểm soát này, một chương trình DRM phải xác định và mô tả hiệu quả được ba thực thể, bao gồm người dùng, nội dung và quyền sử dụng, cũng như mối quan hệ giữa ba thực thể này.
Hãy lấy ví dụ về một phần mềm DRM đơn giản cho một trang web hỗ trợ tải xuống các file MP3. Bạn đăng nhập vào trang web mà mình đã đăng ký để tải xuống một bài hát mà mình yêu thích, ví dụ như ca khúc “Cát bụi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chẳng hạn. Cấp độ đăng ký của bạn cho phép bạn có thể tải xuống năm bài hát mỗi tháng. Trong trường hợp này, các thực thể mà DRM cần phải quản lý sẽ bao gồm người dùng là bạn và nội dung là “Cát bụi” của Trịnh Công Sơn. Xác định được người dùng và nội dung là những nhiệm vụ khá đơn giản. Bạn thì đã có số ID khách hàng riêng và mỗi tệp MP3 trên trang web cũng có thể có mã số sản phẩm cụ thể được liên kết, phần khó khăn hơn sẽ là xác định được các quyền, tức là cách thức mà ở đó bạn được và không được phép làm gì với nội dung đó. Liệu bạn có thể tải xuống tệp đó không? hay đã tải xuống đủ năm tệp MP3 giới hạn trong tháng hay chưa? Bạn có thể sao chép tệp hoặc đang tải xuống tệp đã được mã hóa và khóa tương ứng hay không? Bạn có thể trích xuất một đoạn của bài hát để sử dụng trong phần mềm trộn âm thanh của riêng mình hay không? Quyền sử dụng bao gồm không chỉ các quyền và các ràng buộc, mà còn bao gồm bất kỳ nghĩa vụ nào liên quan đến giao dịch đó. Ví dụ: Bạn có cần phải trả thêm tiền cho bản tải xuống này hay không? Liệu bạn có được hưởng ưu đãi nào khi tải xuống bài hát này không?
Tất cả những điều này sẽ được đưa vào mối quan hệ giữa bạn, bài hát và các quyền có liên quan.
Công nghệ DRM
Vẫn theo ví dụ phía trên, giả sử bạn mới chỉ tải xuống ba tệp cho trong tháng này, vì vậy bản tải xuống này vẫn nằm trong giới hạn năm bài hát một tháng mà bạn đã được cấp quyền khi đăng ký, và giả sử bạn đã nhận được thêm ưu đãi khuyến mãi giảm 20 nghìn tiền phí đăng ký cho tháng tiếp theo nếu bạn tải xuống bài ”Cát bụi” này, khi đó, bạn có thể sao chép các tệp theo fair use. Giả sử chủ sở hữu bản quyền từ chối việc cấp quyền trích xuất nội dung kỹ thuật số của mình cho bất kỳ ai. Cấu trúc DRM cho tập tin MP3 mà bạn xuống có thể trông giống như sau:
Xin lưu ý rằng mặc dù trạng thái người dùng vẫn là giống nhau mỗi khi bạn đăng nhập vào trang web, nhưng mối quan hệ giữa người dùng, nội dung và quyền có thể sẽ thay đổi. Cấu trúc của các DRM phải có khả năng thích ứng với các điều kiện thay đổi. Nếu bạn nâng cấp gói đăng ký của mình lên cấp độ cho phép tải xuống không giới hạn thay vì chỉ năm lượt tải xuống mỗi tháng, phần mềm DRM cũng sẽ phải điều chỉnh theo mối quan hệ mới đó. Cấu trúc DRM phải được gắn với công nghệ của trang web để nó có thể điều chỉnh các mối quan hệ một cách nhanh chóng. Đây là một trong những lý do tại sao các thiết lập DRM liền mạch sẽ khó thực hiện, bởi nếu không có tiêu chuẩn cụ thể, phần mềm quản lý bản quyền nội dung số sẽ không thể dễ dàng liên kết với các công cụ thương mại điện tử hiện có trên trang. Tuy nhiên, kiểm soát các dữ liệu tải xuống từ một trang web vẫn chưa phải là quá phức tạp, phần khó khăn hơn nằm ở chỗ làm thế nào để kiểm soát được những gì người dùng làm với nội dung kỹ thuật số khi nó thuộc sở hữu của họ. Trang web kia sẽ thực thi quyền sử dụng của bạn đối với file MP3 vừa mới tải xuống như thế nào? Làm thế nào để họ biết bạn sẽ không tạo ra bản sao mới của file MP3 đó? Đây chính là lúc DRM phát huy tác dụng. Nếu trong trường hợp của một công ty truyền thông lớn đang cố gắng ngăn mọi người sao chép tài liệu điện tử, thì việc này không hề khó.
Các công ty như ContentGuard, Digimarc, InterTrust và Macrovision là những doanh nghiệp chuyên cung cấp các giải pháp DRM tự động, bao gồm mọi thứ bạn cần để thiết lập một cấu trúc DRM của riêng mình, phù hợp với từng tình huống cụ thể.
Ví dụ, bộ công cụ DRM hoàn chỉnh của ContentGuard cho phép chủ sở hữu bản quyền tạo và thực thi giấy phép sử dụng cho các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số của họ, bao gồm mọi kiểu dữ liệu số, từ phim ảnh đến các phần mềm được tải xuống. Phần mềm RightsExpress sử dụng ngôn ngữ biểu thức quyền MPEG REL và hướng dẫn người giữ bản quyền thông qua quá trình xác định một đoạn nội dung, xác định người dùng và xác định quyền sử dụng. Từ đó, chủ sở hữu bản quyền có thể đặt mức truy cập và chế độ mã hóa cho từng nội dung cụ thể, tạo giao diện tùy chỉnh cho phép người dùng lấy nội dung dựa trên các cài đặt đó, phát triển mô hình thực thi xác minh nhận dạng người dùng và theo dõi việc sử dụng nội dung đó của người dùng.
Vòng bảo vệ của DRM
Tiếp tục với ví dụ trên, bạn còn 2 lần download bài “Cát bụi”, máy tính chỉ đơn giản hiểu là như vậy. Nhưng máy tính sẽ không hiểu bạn đã sao chép nó vào máy nghe nhạc MP3 và máy tính xách tay của mình, hay bạn lại sử dụng thêm một máy tính để bàn mới và bạn cần phải tạo thêm một bản sao nữa.
Nhiều công ty đã thực hiện các biện pháp trong “tuyệt vọng” để cố gắng hạn chế việc các nội dung kỹ thuật số bị lan truyền bất hợp pháp qua Internet, cũng như loại bỏ một số quyền mà người tiêu dùng có thể thực hiện với nội dung mà họ đã mua lại.
Một chương trình mã hóa DRM điển hình thường cung cấp một khóa mã hóa hoạt động vĩnh viễn. Trong trường hợp này, các khóa phải được gắn với số ID máy của người dùng. Khóa sẽ chỉ giải mã tệp khi được truy cập từ máy tính mà ban đầu nó được gắt trên đó. Nếu không, người dùng có thể chỉ cần chuyển tiếp khóa cùng với phần mềm được mã hóa cho tất cả những người mà anh ta biết.
Một số sản phẩm, ví dụ như những sản phẩm được bảo vệ bởi Macrovision SafeCast hoặc Microsoft Product Activation, sử dụng chính sách cấp phép dựa trên web để ngăn chặn việc sử dụng trái phép nội dung. Khi người dùng cài đặt phần mềm, máy tính của anh ta sẽ liên hệ với máy chủ, sau đó xác minh giấy phép và nhận quyền (khóa truy cập) để cài đặt và chạy chương trình. Nếu máy tính của người dùng là trường hợp đầu tiên yêu cầu quyền cài đặt phần mềm cụ thể này, máy chủ sẽ trả về khóa thích hợp. Nếu người dùng chia sẻ phần mềm cho bạn bè của họ và người bạn đó cố cài đặt phần mềm, máy chủ sẽ từ chối quyền truy cập. Trong mô hình DRM dạng này, người dùng thường phải liên hệ với nhà cung cấp nội dung để được phép cài đặt phần mềm trên một máy khác.
Một phương pháp DRM ít phổ biến hơn là hình mờ kỹ thuật số (digital watermark). FCC đang cố gắng yêu cầu một "broadcast flag" cho phép máy ghi video kỹ thuật số nhận diện xem nó có được phép ghi lại chương trình này hay không. Flag là một đoạn mã được gửi đi với tín hiệu video kỹ thuật số. Nếu broadcast flag cho biết chương trình được bảo vệ, DVR hoặc đầu ghi DVD sẽ không thể ghi lại được chương trình đó. Mô hình DRM này là một trong những mô hình bảo vệ khá phức tạp, vì nó yêu cầu cả phương tiện và thiết bị đều có thể đọc được broadcast flag. Đây là lúc hệ thống bảo vệ nội dung video (VCPS) của Philips xuất hiện. Công nghệ VCPS giúp đọc broadcast flag của FCC và xác định xem thiết bị có thể ghi chương trình hay không. Một đĩa không được bảo vệ có thể được phát trên bất kỳ đầu phát DVD nào, nhưng nếu đĩa có broadcast flag thì sẽ chỉ có thể ghi và phát được trên trình phát được tích hợp VCPS.
Nhà cung cấp DRM Macrovision đã sử dụng một cách tiếp cận thú vị trong các sản phẩm giúp bảo vệ đĩa DVD gần đây của họ. Thay vì làm cho một DVD không thể sao chép được, Macrovision RipGuard sẽ khai thác các lỗi trong phần mềm sao chép DVD để từ đó ngăn chặn chính hành vi sao chép. Đó là một đoạn mã trong phần mềm trên đĩa DVD, và mục đích của nó là gây nhầm lẫn cho một mã khác được gọi là DeCSS. DeCSS là một chương trình nhỏ cho phép phần mềm đọc và trích xuất các đĩa DVD được mã hóa. Các lập trình viên của Macrovision đã nghiên cứu DeCSS để phát hiện ra các lỗ hổng của nó và sau đó xây dựng RipGuard để kích hoạt các lỗ hổng đó và vô hiệu hóa tính năng sao chép. Tuy nhiên, người sử dụng DVD cũng đã tìm được nhiều cách để “lách” RipGuard, chủ yếu là bằng cách sử dụng phần mềm trích xuất không sử dụng DeCSS hoặc bằng cách tinh chỉnh mã trong trình trích xuất dữ liệu dựa trên DeCSS. Đạo luật bản quyền kỹ thuật số năm 1998 đã vô hiệu hoá một hệ thống DRM bất hợp pháp tại Hoa Kỳ, nhưng nhiều người vẫn tích cực tìm kiếm và xuất bản các phương pháp để vượt qua các hạn chế bảo mật của DRM.
Tranh cãi về DRM
Các mô hình DRM gần đây vô hình chung đã thiết lập một mối quan hệ đối nghịch giữa các nhà cung cấp nội dung kỹ thuật số và người sử dụng nội dung kỹ thuật số. Trong nhiều năm qua, một số tranh cãi liên quan đến công nghệ DRM đã nổi lên.
Ví dụ, trong năm 2005, Sony BMG phân phối các đĩa CD dẫn đến kiện tụng và vô số các vấn đề về truyền thông. Vấn đề bắt nguồn từ những xung đột giữa hai phần mềm trên đĩa CD là MediaMax của SunnComm và Extended Copy Protection của First4Internet (XCP). Sự việc đã nêu lên các câu hỏi liên quan đến việc các chủ sở hữu bản quyền được phép “đi bao xa” trong việc bảo vệ nội dung của họ.
Ngay từ đầu, phần mềm MediaMax đã không hề dính dáng đến việc bảo vệ bản quyền mà chỉ theo dõi hoạt động của người dùng. Mỗi khi ai đó phát đĩa CD trên máy tính của họ, MediaMax sẽ gửi một tin nhắn đến máy chủ SunnComm, từ đó, Sony-BMG có thể tìm ra ai đang nghe đĩa CD và tần suất họ nghe đĩa CD đó. Và vấn đề nằm ở chỗ không có bất cứ dấu hiệu rõ ràng nào hay tuyên bố nào của nhà phát hành về hoạt động của MediaMax, và tệ hơn, không có cách nào dễ dàng để gỡ bỏ phần mềm này.
Tuy nhiên lại có một vấn đề khác lớn hơn. Extended Copy Protection của First4Internet lại giới hạn số lượng bản sao mà một người có thể tạo ra từ đĩa CD là ba. Đầu tiên, nó chạy ẩn trong máy của người dùng để người dùng không thể phát hiện ra được, đồng thời tạo ra một khu vực ẩn (đôi khi được gọi là rootkit) trong hệ điều hành Windows, có khả năng gây ra nguy cơ bảo mật khi máy tính bị nhiễm virus. Các loại virus máy tính có thể ẩn náu vô thời hạn trong Extended Copy Protection mà không bị phát hiện. Các phần mềm quét virus thường không thể động tới được các tệp trong rootkit. Ngoài ra, Extended Copy Protection cũng làm chậm quá trình tính toán, và tự động kết nối với máy chủ Sony-BMG để cài đặt các bản cập nhật bảo vệ bản sao. Và không có cách nào dễ dàng để gỡ cài đặt nó. Một số người dùng đã phải định dạng lại ổ đĩa cứng của họ để loại bỏ các tập tin và tác động tiêu cực mà Extended Copy Protection gây ra. Cuối cùng thì Sony đã phải thu hồi hàng triệu đĩa được tích hợp mô hình DRM, đồng thời đã phải đồng ý phát hành các công cụ giúp hiển thị các tệp ẩn.
Tuy nhiên, sau những sự cố như vậy, DRM đã không biến mất mãi mãi mà vẫn tiếp tục gây ra vấn đề cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Ví dụ, một trò chơi máy tính có tên Spore do Electronic Arts (EA) phát hành năm 2008, đi kèm với những gì mà nhiều người chơi coi là một hệ thống DRM xâm nhập một cách quá đáng và rất khó có thể bị loại bỏ, đó là SecuROM. SecuROM đã giới hạn một cách quá đáng quyền của những người đã mua game, chẳng hạn như việc chỉ cho phép cài đặt Spore tối đa 3 lần, sau 3 lần mà vẫn muốn cài đặt thêm thì người chơi sẽ phải liên hệ với EA và cung cấp cho công ty các thông tin như bằng chứng là đã mua game, lý do sử dụng quá giới hạn 3 lần cài đặt và các thông tin liên quan khác. EA cuối cùng đã nới lỏng các hạn chế về DRM của trò chơi, nhưng họ vẫn phải đối mặt với một số vụ kiện về fair use ngay sau đó một thời gian.
Apple và các khách hàng của hãng cũng đã lo ngại về việc tải xuống phim từ iTunes - một dịch vụ download của công ty. Apple đã phát hành các mẫu máy tính xách tay cá nhân Macbook của họ, vào tháng 10/2008, với rất ít thông tin liên quan đến các mô hình DRM được áp dụng. Trên thực tế, các máy Macbook này đã được cài đặt với hệ thống bảo vệ nội dung kỹ thuật số băng thông cao (HDCP). Do không nhận thức được công nghệ này, nhiều khách hàng đã mua Macbook và cố gắng phát các bộ phim được tải xuống từ iTunes trên các màn hình gắn ngoài nhưng hoàn toàn không thể xem được. HDCP chặn bất kỳ phim nào phát trên các thiết bị analog để ngăn chặn việc ghi nội dung từ phần mềm sao chép, nhưng hầu hết khách hàng đã mua nội dung chỉ muốn xem nội dung đó trên một màn hình rộng hơn, và HDCP đã không cho phép họ làm như vậy.
Tiêu chuẩn DRM
Không có tiêu chuẩn toàn diện chung cho DRM. Tại thời điểm này, nhiều công ty trong lĩnh vực giải trí kỹ thuật số đang lựa chọn phương thức thô, trong đó, người dùng không thể sao chép, in, thay đổi hoặc chuyển giao các tài liệu. Vấn đề đáng quan tâm nhất mà các nhà hoạt động liên quan đến DRM phải làm trên thực tế là xu hướng DRM hiện tại đang vượt qua các biện pháp bảo vệ được quy định theo luật bản quyền truyền thống. Ví dụ: khi bạn phát đĩa DVD, một số mô hình DRM sẽ không cho phép bạn bỏ qua đoạn giới thiệu, điều đó hề không liên quan gì đến việc bảo vệ bản quyền. Chịu nhiều bất lợi hơn cả người tiêu dùng là các thư viện cũng như các tổ chức giáo dục lưu trữ và cho mượn nội dung kỹ thuật số, họ có thể sẽ bị thiệt hại rất nhiều nếu các phần mềm DRM có mức độ hạn chế cao trở thành tiêu chuẩn. Thư viện sẽ không thể lưu trữ một phần mềm với khóa mã hóa giới hạn thời gian và không thể cho mượn giấy phép dành riêng cho một thiết bị để xem nội dung bằng mô hình cho mượn truyền thống của mình được.
Các lập luận chống lại quản lý bản quyền nội dung số dựa vào các vấn đề như quyền riêng tư của người dùng, sự đổi mới công nghệ và các thức sử dụng hợp lý. Như đã nói, theo luật bản quyền, học thuyết fair use cho phép người tiêu dùng có quyền sao chép nội dung có bản quyền mà họ đã mua lại để sử dụng cho những mục đích riêng của mình. Các học thuyết khác như first sale, cho phép người mua nội dung bán lại hoặc xóa bỏ nội dung mà anh ta đã mua và học thuyết limited term sẽ hạn chế thời hạn sở hữu bản quyền sau một khoảng thời gian nhất định. Như chúng ta đã thấy trong trường hợp của Sony-BMG, công ty đã bí mật theo dõi hoạt động của người tiêu dùng và ẩn các tệp trên máy tính của người dùng, đó là xâm phạm vào quyền riêng tư của người dùng. Đây có thể được coi là những phương pháp tiếp cận của các ứng dụng phần mềm gián điệp chứ không phải là một mô hình quản lý bản quyền hợp pháp. Hệ thống DRM cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng đổi mới công nghệ vì nó hạn chế việc sử dụng và định dạng của nội dung số. Nhà cung cấp bên thứ ba sẽ không thể phát triển các sản phẩm và tiện ích hỗ trợ nếu mã máy tính trong phần mềm đó được bảo vệ vô thời hạn bởi DRM, và người tiêu dùng cũng sẽ không thể nâng cấp một cách hợp pháp phần cứng của riêng họ khi nó được bảo vệ bởi một chương trình DRM.
Theo Giáo sư Ed Felten thuộc Đại học Princeton, DRM không chỉ ảnh hưởng đến sự tự do phát triển của công nghệ mà còn hạn chế quyền tự do ngôn luận. Khi Giáo sư Felten cố gắng xuất bản một bài báo về một hệ thống DRM bị lỗi vào năm 2001, các nhà sản xuất trong ngành công nghiệp âm nhạc đã đe dọa kiện ông. Một số công ty cho rằng nghiên cứu của ông sẽ khuyến kích người dân bỏ qua các chương trình DRM, và điều này là bất hợp pháp tại Hoa Kỳ. Đạo luật bản quyền kỹ thuật số thiên niên kỷ năm 1998 (Digital Millennium Copyright Act - DCMA) đảm bảo việc bảo vệ một chương trình DRM bất kể nó có tôn trọng học thuyết fair use hay không. Các nhóm đấu tranh cho quyền lợi của người tiêu dùng ở nhiều nước đang vận động Quốc hội sửa đổi một phần của đạo luật DCMA, vì theo DCMA, việc cố gắng vô hiệu hóa hay lách DRM là vi phạm pháp luật. Theo những người đấu tranh cho quyền lợi của người tiêu dùng, DCMA mang lại lợi thế không đúng cho chủ sở hữu bản quyền bằng cách không đặt giới hạn về loại chương trình DRM mà họ có thể sử dụng. Về bản chất, DCMA khuyến khích việc chống cạnh tranh và khiến người tiêu dùng ngày càng khó có thể dễ dàng thưởng thức được những nội dung mà họ đã mua lại.
Trong thực tế lĩnh vực nội dung kỹ thuật số đang ngày càng được củng cố như hiện nay, có lẽ chúng ta nên tự hỏi liệu có bất kỳ hệ thống DRM nào có thể đáp ứng hài hòa lợi ích của cả người sở hữu bản quyền và người tiêu dùng hay không. Khi DRM trở thành một tiêu chuẩn trong các lĩnh vực, kết quả sẽ là những gì các chuyên gia gọi là "điện toán đáng tin cậy". Trong thiết lập này, các phương pháp DRM sẽ đảm bảo việc bảo vệ nội dung có bản quyền dọc theo từng bước, từ việc tạo ra nội dung để tải lên cho đến khi nội dung đó được tải xuống và sử dụng khi nó nằm trong tay người dùng. Máy tính sẽ tự động biết những gì người dùng được phép tiến hành với một phần nội dung và sẽ có những hành động phù hợp. Với việc áp dụng các tiêu chuẩn, người tiêu dùng ít nhất cũng sẽ được hưởng lợi một phần nào đó, bởi vì các phương tiện truyền thông mã hóa DRM sẽ có thể sử dụng được trên tất cả các loại thiết bị. Mong rằng trong tương lai, các nhà phát hành sẽ có thể tìm được cách thức tối ưu nhất, dung hòa giữa quyền lợi của những người nắm giữ bản quyền là họ, với quyền lợi của những người sử dụng bản quyền là người tiêu dùng!