macOS và Linux đều là những hệ điều hành tuyệt vời. Cả hai đều được lấy cảm hứng từ Unix, ổn định và mạnh mẽ.
Hai hệ điều hành này có nhiều điểm chung, nhưng chúng cũng có những đặc điểm rất riêng. Hãy xem xét một số điểm khác biệt chính giữa macOS và Linux.
Lịch sử tóm tắt của macOS và Linux
Các phần chính của macOS và Linux là kernel, các tiện ích cốt lõi, GUI hoặc môi trường desktop và những ứng dụng.
macOS dựa trên kernel BSD Unix được gọi là Darwin, mã nguồn mở. Các phần khác của macOS (ví dụ, GUI và các ứng dụng cốt lõi) là mã nguồn đóng và độc quyền. Apple xây dựng và duy trì các hệ thống phần mềm này và chúng trở thành một phần của thiết bị Mac.
Apple đã áp dụng Unix vào macOS từ đầu những năm 2000. Trước đó, macOS dựa trên hệ điều hành không phải Unix.
Mặt khác, Linux bắt đầu như một dự án cá nhân và là một bản sao của hệ điều hành Unix vào đầu những năm 90 bởi Linus Torvalds. Nói một cách chính xác, Linux chỉ là kernel. Bản thân hệ điều hành được tạo thành từ các phần cốt lõi như những tiện ích GNU và những môi trường desktop GNOME, KDE, v.v…
1. Phần mềm nguồn mở và phần mềm độc quyền
Cả Linux và macOS đều sử dụng phần mềm mã nguồn mở, nhưng trong khi các bản phân phối Linux hoàn toàn là mã nguồn mở, các phần của macOS lại là mã nguồn đóng và độc quyền.
Từ kernel mã nguồn mở đến các tiện ích GNU cốt lõi và môi trường GUI, Linux là hình ảnh thu nhỏ của phần mềm mã nguồn mở và miễn phí. Bạn có thể tự do sửa đổi và đóng gói lại toàn bộ hệ điều hành theo ý thích của mình. Bạn thậm chí có thể thương mại hóa và kiếm tiền từ nó, như trường hợp của Red Hat Enterprise Linux.
Trong hầu hết các trường hợp, các điều khoản cấp phép cho Linux yêu cầu những sửa đổi bạn thực hiện cũng phải được công khai với cộng đồng.
Với macOS, nó chủ yếu là kernel mã nguồn mở. Các phần khác như desktop và những ứng dụng không phải là mã nguồn mở. Tất nhiên, các thành phần khác của Apple như ngôn ngữ lập trình Swift là mã nguồn mở.
Không giống như Linux, mà bạn có thể sử dụng trên bất kỳ phần cứng nào mà mình chọn, macOS được sử dụng trên các thiết bị Mac. Khi bạn mua PC từ Apple, bạn đang trả tiền cho cả phần mềm và phần cứng.
2. Quản lý phần mềm
Linux từ lâu đã chấp nhận khái niệm có kho phần mềm trung tâm, từ đó người dùng có thể dễ dàng tải xuống và cài đặt các ứng dụng bằng dòng lệnh hoặc thông qua những công cụ đồ họa.
Hầu hết các bản phân phối Linux đều đi kèm với trình quản lý gói như APT trên các bản phân phối dựa trên Debian, DNF hoặc Yum trên Fedora và Red Hat Enterprise Linux, cũng như Pacman trên các bản phân phối dựa trên Arch. Với trình quản lý gói, bạn có thể cài đặt, gỡ bỏ, cập nhật và quản lý các ứng dụng phần mềm một cách dễ dàng trên PC của mình.
Phương pháp truyền thống để cài đặt ứng dụng trên macOS là thông qua thư mục ứng dụng. Bạn tải ứng dụng muốn cài đặt từ Internet rồi kéo vào thư mục ứng dụng và macOS sẽ lo phần còn lại.
Một tùy chọn khác gần đây hơn là sử dụng Mac App Store để cài đặt các ứng dụng phần mềm.
Bạn cũng có thể sử dụng Homebrew, một trình quản lý gói hoạt động trên macOS theo cách tương tự như các trình quản lý gói Linux như APT. Homebrew cũng hoạt động trên Linux.
3. Sự nổi bật của dòng lệnh
Sức mạnh thực sự của Linux nằm ở terminal hay dòng lệnh. macOS có sẵn một trình giả lập terminal tương tự, nhưng phần lớn sự chú ý dành cho desktop Mac được ưa thích.
Terminal cho phép bạn tương tác với PC và tài nguyên phần mềm của mình một cách hiệu quả và dễ dàng. Thêm vào đó, nó cho phép bạn tự động hóa và lên lịch các tác vụ một cách dễ dàng. Các kỹ sư phần mềm, người dùng nâng cao và quản trị viên hệ thống chạy Linux kết hợp chặt chẽ terminal vào quy trình làm việc của họ.
Hầu hết các bản phân phối Linux sử dụng Bash (GNU Bourne Again Shell) làm shell mặc định cho terminal. Vào năm 2019, Apple đã thay thế Bash shell bằng Zsh (Z shell). Z shell có khả năng tùy biến cao và có nhiều điểm tương đồng với Bash, ksh và tcsh.
Vì Linux và macOS hầu hết sử dụng các shell tương tự, những lệnh cốt lõi mà bạn chạy trên PC Linux cũng sẽ hoạt động trên máy Mac và ngược lại.
4. Môi trường desktop
Trong những ngày đầu của Linux, các hệ điều hành dựa trên kernel không có GUI và hầu hết các máy chủ Linux vẫn không có. Bạn phải tương tác với hệ điều hành thông qua terminal. Theo thời gian, môi trường desktop đã được phát triển để giúp người dùng tương tác với hệ điều hành một cách trực quan và thân thiện hơn, để hệ điều hành có thể phục vụ cho cả người dùng chuyên sâu và không chuyên về kỹ thuật.
Như với tất cả mọi thứ trên Linux, có nhiều môi trường desktop mà bạn có thể lựa chọn, tất cả đều cung cấp một cách duy nhất để bạn tương tác với hệ thống. Một số môi trường desktop nổi bật bao gồm GNOME, XFCE, KDE, Deepin, v.v… Bạn có thể tự do cài đặt một số môi trường desktop trên Linux, tuy nhiên, bạn chỉ có thể sử dụng một môi trường tại một thời điểm.
GUI trên macOS là tiêu chuẩn và giống nhau đối với tất cả người dùng. Ngoài việc thay đổi hình nền, theme và các chỉnh sửa tương tự, bạn không có tùy chọn cài đặt trình quản lý desktop khác thay đổi giao diện macOS.
5. Khái niệm về nhiều bản phân phối
Trên Linux, distro hay bản phân phối là một loại Linux cụ thể đi kèm với bộ ứng dụng, môi trường desktop và tiện ích hệ thống cụ thể. Các bản phân phối khác nhau thường nhắm mục tiêu đến một nhóm người dùng cụ thể như hacker mũ trắng, nghệ sĩ, lập trình viên, nhà phát triển phần mềm, v.v…
Thực sự có hàng nghìn bản phân phối Linux mà bạn có thể lựa chọn tùy thuộc vào quy trình làm việc của mình. Ví dụ, Kali Linux, một bản phân phối dựa trên Debian, chủ yếu được sử dụng để kiểm thử thâm nhập và ethical hacking. Nó đi kèm với rất nhiều công cụ và tiện ích phù hợp với những hacker mũ trắng.
Arch Linux là một ví dụ khác về bản phân phối Linux nhẹ và đi kèm với các công cụ tối thiểu. Nó được sử dụng rộng rãi bởi những người đam mê Linux và những người yêu thích máy tính, những người thích tùy chỉnh hệ điều hành của họ từ đầu.
Mặt khác, với macOS, mọi người đều có cùng một loại hệ điều hành bất kể đam mê hay công việc của họ là gì. Điều này là do Apple là công ty duy nhất phát triển và kiểm soát hệ điều hành. Việc Apple duy trì nhiều biến thể của một hệ điều hành sẽ phản tác dụng.
Lý do tại sao có rất nhiều bản phân phối Linux bắt nguồn từ thực tế là Linux kernel và các thành phần cốt lõi của nó đều là mã nguồn mở. Điều này cho phép người dùng dễ dàng tạo các phiên bản Linux mới nhắm mục tiêu đến một đối tượng cụ thể.
Linux và macOS đều tuyệt vời. Cả hai đều đi kèm với một shell dòng lệnh giống nhau và có cấu trúc file giống hệt nhau. Tất cả những khác biệt khác bắt nguồn từ thực tế là Linux kernel là mã nguồn mở và bất kỳ ai cũng có thể tự do sửa đổi nó.
Bạn không chắc chắn nên sử dụng bản phân phối Linux nào? Với hàng trăm bản phân phối Linux để lựa chọn, thật khó để tìm được tùy chọn phù hợp. Các bản phân phối dựa trên Debian như Ubuntu và Pop! _OS thật tuyệt vời và dễ bắt đầu.