Top 5 lời đồn về Microsoft

Quản Trị Mạng - Có một bức ảnh của Bill Gates có thể giúp giải thích về những điều kì diệu ông đã làm trong sự nghiệp kinh doanh kì diệu cũng như sáng tạo nổi tiếng nhất của ông, tập đoàn Microsoft. Bức ảnh này được chụp năm 1977 khi Gates bị bắt vì lái xe quá tốc độ ở Albuquerque thuộc New Mexico.

Trong bức ảnh là một thanh niên 19 tuổi với cặp kính cận dày với một nụ cười tự mãn. Bằng cách nào, chúng ta sẽ tự hỏi, dưới vẻ mặt ngờ nghệch này lại bị bắt vì tội lái xe quá tốc độ lại có thể trở thành người giàu nhất thế giới?

Nếu tìm kiếm trên mạng câu trả lời cho câu hỏi trên, bạn sẽ thấy có rất nhiều thông tin sai lệch hoặc chỉ đúng 1 nửa. Điều này không giúp cho Microsoft có thể chiếm hơn nửa thị trường so với các đối thủ của mình trong những năm qua. Nó càng không giúp những đối thủ cạnh tranh của Microsoft có thể tận dụng để chia sẻ sự ghen tị của họ với thế giới. Họ vừa kết tội công ty và người cựu giám đốc điều hành đã thực hiện chế độ độc quyền để cướp lấy những tiến bộ công nghệ lớn nhất và trở nên thực sự độc ác.

Những lời đồn xung quanh Microsoft và người sáng lập của hãng gắn chặt với những lời đồn về sự sáng tạo ra máy tính cá nhân. Để bắt đầu với danh sách top 5 lời đồn nổi tiếng về Microsot, chúng ta sẽ tìm hiểu quan niệm sai phổ biến nhất về nguồn gốc của Windows.

5. Microsoft đã phát minh ra "Windows"

Năm 1968, khi Bill Gates mới 13 tuổi và đang tập lập trình BASIC, một kỹ sư có tên Douglas Englebart tại viện nghiên cứu Stanford đã giới thiệu với thế giới về con chuột. Đối với những người sử dụng máy tính hiện đại, con chuột là thiết bị cần thiết đối với công nghệ. Nó giúp người dùng kích vào các icon, kéo lên, kéo xuống menu và di chuyển mũi tên. Tuy nhiên, những người sử dụng máy tính vào năm 1968, con chuột thực sự là một cuộc cách mạng bởi chưa từng có người nào trước đó đã nghe về những loại thiết bị này.

Englebart còn sáng lập ra giao diện người dùng đồ họa, hoặc GUI. Đầu những năm 1970, một đội nghiên cứu tại trung tâm Xerox Palo Alto Research Center (PARC) đã mở rộng quan niệm của Englebart và xây dựng Xerox Alto, máy tính cá nhân đầu tiên mà tính năng của nó hiện nay là chuẩn W.I.M.P (Windows – cửa sổ, icons – biểu tượng, Menu và Pointing – con trỏ).

Xerox Alto chạy trên hệ điều hành được gọi là SmallTalk, được phát triển bởi các nhà nghiên cứu Xerox PARC. Năm 1979, chàng trai 24 tuổi Steve Jobs được công ty Apple Computer, Inc trả 1 triệu đô bằng cổ phiếu Apple để có thể được xem những chi tiết của Xerox PARC. Bị cuốn hút bởi SmallTalk GUI, Jobs đề nghị xem tài liệu kỹ thuật và Xerox đã ngốc nghếch trình ra.

Sau khi đã nắm được các đặc điểm của SmallTalk GUI, Apple đã cho ra mắt Lisa vào năm 1983, máy tính thương mại đầu tiên để cấu hình nên Windows GUI. Jobs sử dụng giao diện GUI tương tự cho Macintosh. Khi Bill Gates, người viết phần mềm cho Mac, cho ra mắt Windows 2.0 vào năm 1987, Apple kiện Microsoft rõ ràng đã ăn trộm ý tưởng về Mac – giống như Apple đã ăn trộm Xerox trước đó.

Cuối cùng, Apple đã thua trong vụ kiện và Microsoft đã thống trị thị trường máy tính cá nhân làm và biến windows đồng nghĩa với Windows.

4. Microsoft không quan tâm tới vấn đề bảo mật

Microsoft là gã khổng lồ sản xuất phần mềm, nhưng vẫn có những lỗ hổng bảo mật trong hệ điều hành cũng như các phần mềm, ứng dụng của hãng. Kiểu tấn công backdoor cho phép hacker có ý đồ xấu có thể truy cập những máy tính không được bảo vệ, biến những máy tính này thành máy trung gian có thể phát tán virus và sâu hại máy tính tới các máy tính khác.

Rất hiếm khi bạn bắt gặp những tiêu đề như “Apple cảnh báo người dùng về lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng” hoặc “mũ đỏ chạy đua cho ra bản vá cản trở hacker”. Tại sao? Bời rất ít lập trình viên quan tâm tới việc viết mã độc và những virus phá hoại máy tính có chạy hệ điều hành Macs và Linux. Lý do cho việc này rất đơn giản: nếu bạn là một hacker và mục tiêu của bạn là nhắm vào càng nhiều máy tính càng tốt, bạn sẽ hướng tới mục tiêu là hệ điều hành được sử dụng bởi hơn 90% người dùng máy tính cá nhân trên thế giới.

Bất chấp những lời chỉ trích ngày càng gia tăng về khả năng an ninh kém của Windows XP, sẽ thật lầm lẫn nếu nói rằng Microsoft không hề quan tâm tới vấn đề an ninh. Microsoft đã thuê một số chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực an ninh mạng, bao gồm trưởng an ninh Michael Howard và chuyên gia an ninh của Linux Crispin Cowan. Những năm gần đây, họ đã tiến hành một số kế hoạch dài hạn trong bước đầu tiếp cận an ninh, bao gồm Trustworthy Computing, End to End Trust và gần đây nhất là Microsoft Security Essentials. Họ cũng vừa xây dựng Windows Vista, Windows 7 có khả năng bảo mật tốt hơn hẳn Windows XP.

Câu hỏi thực tế, theo chuyên gia công nghệ Rob Enderle, là liệu có ai đó, ở bất kỳ công ty nào, có thể đánh bại thành công các cuộc tấn công liên tục đang nhắm vào các sản phẩm của Microsoft. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, ông nói, khoe khoang về các tính năng bảo mật chắc chắn là một hành động khiêu khích với các hacker. Ví dụ, Enderle trích từ một thông báo của Oracle khi hãng này cho rằng sản phẩm mới nhất của họ là "chống đạn." Kết quả là nó đã bị tấn công thành công ngay ngày hôm sau.


3. Microsoft là một “nhà độc quyền tự nhiên”

Một số nhà phê bình đã bảo vệ Microsoft trong việc chính phủ Mỹ chống lại Microsoft về chống độc quyền. Họ cho rằng Microsoft giữ độc quyền tự nhiên những phần mềm này là hợp pháp bởi họ thiết lập sự thống trị của mình bằng những chiến thuật vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh.

Định nghĩa thực sự của độc quyền tự nhiên khác so với nghĩa phát ngôn. Theo kinh tế học, độc quyền tự nhiên xuất hiện khi, do quy luật tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô, hiệu quả sản xuất và phân phối của một ngành đạt được tối đa khi chỉ có một người cung cấp duy nhất. Một số nhà kinh tế học theo trường phái thị trường tự do cho rằng độc quyền tự nhiên chỉ tồn tại trên lý thuyết, không có trong thực tế. Lý luận về độc quyền tự nhiên thường được dùng để bào chữa cho những quy định pháp lý hạn chế cạnh tranh.

Các công ty nhà nước là ví dụ của độc quyền tự nhiên. Ở hầu hết các thành phố và thị trấn, bạn không có lựa chọn nào khác trong việc sử dụng 1 công ty điện. Đó là bởi có hàng rào rất lớn ngăn cản việc hình thành một công ty điện cạnh tranh. Bạn sẽ phải xây dựng một nhà máy điện, đi hàng ngàn mét dây để tạo cơ sở hạ tầng. Sẽ rẻ hơn cho người tiêu dùng và hiệu quả hơn cho nhà nước khi có một công ty tư nhân có thể đảm nhiệm được những việc trên.

Nhìn bề ngoài, Microsoft trông giống có vẻ như đang độc quyền tự nhiên về ngành công nghiệp máy tính. Bởi hãng này chiếm đến 90% thị phần hệ điều hành máy tính trên toàn thế giới, Microsoft được hưởng lợi rất nhiều từ đó. Ví dụ, các nhà phát triển phần mềm nhỏ sẽ không đủ khả năng có thể chi mạnh tay như Microsoft cho việc phát triển và tiếp thị sản phẩm. Họ không thể kiếm tiền mà không đầu tư như Microsoft có thể khi kinh doanh cùng với một sản phẩm.

Sự khác biệt lớn nhất là Microfost sử dụng triệt để “sức mạnh thị trường cực lớn và lợi nhuận khổng lồ” của hãng, theo lời của thẩm phán Thomas Penfield Jackson, nó không chỉ gây cản trở cực lớn đối với đối thủ của hãng mà còn có thể đe dọa, cảnh báo với bất kì một ai muốn thách thức hãng. Và điều này cũng không có gì là tự nhiên cả.

2. Microsoft không sáng tạo

Microsoft có danh tiếng trong lĩnh vực thu hút và sử dụng các ý tưởng công nghệ. Nói theo cách khác, Microsoft đã mượn hoặc mua tất cả những ý tưởng mà họ từng có.

Nhận định này không phải là hoàn toàn không có căn cứ. Ví dụ, Bill Gates và những người bạn của mình đã không viết code cho MS-DOS. Họ đã mua lại QDOS (Quick and Dirty Operating System) với giá 50,000 đô. Sau đó, họ đã cải tiến và cấp phép cho IBM với lợi nhuận cao. Ngoài ra, họ cũng không tự thực hiện code cho bản nguyên gốc Internet Explorer: họ được cấp phép nguồn code từ Spyglass Inc., công ty chủ quản của trình duyệt Mosaic, và sử dụng code căn bản giống như vậy đối với 3 hoặc 4 phiên bản sau của Explorer.

Những người bảo vệ Microsoft biết rõ hãng này không phải là nhà sáng tạo công nghệ tuyệt vời – Gates không nhận ra tiềm năng của Internet mãi cho tới năm 1995 – nhưng họ vẫn có thể nói rằng công ty đã có một số ý tưởng kinh doanh tiên tiến nhất trong lĩnh vực này.

Hãy nghĩ về điều này. Trước khi Microsoft phát triển, không ai có ý nghĩ bán riêng lẻ phần mềm và phần cứng. IBM được cấp phép MS-DOS từ Microsoft bởi họ muốn tập trung vào phần cứng. Gates, Steve Ballmer và những người đứng đầu khác của Microsoft đã nhận thấy trước khả năng sinh lời trong việc sản xuất ra hệ điều hành tới hàng chục nhà sản xuất phần cứng máy tính khác nhau.

Khi viện kinh tế Harvard nghiên cứu bí mật thành công của Microsoft, họ đã xác định chính sự tiếp cận sáng tạo của công ty chính là sở hữu trí tuệ của hãng. Microsoft đã tạo ra một thư viện khổng lồ của các mã nguồn độc quyền. những mã nguồn này chỉ làm việc được trên platform của Windows. Nếu một nhà lập trình có thể chứng minh được lòng trung thành của mình với Microsoft, anh ta được phép truy cập vào thư viện code – cũng như hàng trăm triệu khách hàng tiềm năng của Microsoft.

1. Bill Gates là quỷ dữ

Kiêu ngạo, hay bắt nạt, tàn nhẫn, bướng bỉnh. Đây là tất cả những tính từ mà cựu nhân viên và nhân viên hiện tại của Microsoft cũng như đối thủ của hãng sử dụng để miêu tả William Henry Gates III. Tuy nhiên, những nhà phê bình sẽ miêu tả ông như một ác quỷ? Không phải như vậy.
Khi Gates công bố không tham dự vào việc điều hành Microsoft vào tháng 7 năm 2008, đã gây ra một làn sóng các bài báo về tài sản của ông. Một số người so sánh ông với Henry Ford, một người đã dùng công nghệ hiếm có, đắt tiền và khéo léo nghĩ ra cách để bán cho công chúng.

Microsoft có một thời gian dài theo đuổi nhiệm vụ: mỗi gia đình có một máy tính cá nhân. Kết quả là hệ điều hành Microsoft đã được hàng triệu máy tính trên toàn thế giới sử dụng từ năm 1981.

Một số nhà báo và chuyên gia chọn cách so sánh Gates với Henry Ford, nhưng nhiều khả năng so sánh với Andrew Carnegie, ông lớn của ngành thép tham gia vào các cuộc kinh doanh tàn nhẫn trước khi cống hiến những năm cuối của cuộc đời mình cho công việc từ thiện. Khi ông qua đời vào năm 1919, ông muốn cho đi tất cả của cải của mình đến các bảo tàng, thư viện, công viên và các tổ chức từ thiện.

Gates có thể có tội vì nhiều chiến thuật kinh doanh bất chính, nhưng ông lại là một nhà từ thiện đáng quý. Ông sẵn sàng để trở thành người cống hiến lớn nhất trong lịch sử của thế giới. Quỹ từ thiện Bill và Melinda Gates Foundation đã đầu tư hàng chục tỷ đô để xoá bệnh tật và đói nghèo ở các quốc gia đang phát triển và cuối cùng sẽ cho đi tất cả của cải của Gates. Như vậy có thể coi là độc ác được không?

Thứ Tư, 11/08/2010 08:29
31 👨 72
0 Bình luận
Sắp xếp theo
    ❖ Tổng hợp