Dưới đây là những dòng code nhỏ và đơn giản nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khởi đầu từ những dòng code nhỏ này, email, trình duyệt web, tàu vũ trụ Apollo 11… đã được tạo ra và làm thay đổi thế giới mà chúng ta từng biết trước đây.
1. Dòng code nhị phân đầu tiên trên thế giới vào năm 1725
Việc lập trình mã nhị phân xuất hiện từ rất lâu trước khi máy tính xuất hiện. Vào năm 1725, Basile Bouchon đã đục lỗ trên giấy, lỗ đục trên tờ giấy là "1" còn phần không đục là "0". Ông đã dùng nó để điều khiển một khung dệt do ông phát minh ra. Khung dệt này có thể dệt theo mô hình có sẵn dựa vào câu lệnh được nạp vào thông qua các tờ giấy đục lỗ sẵn.
2. Dòng code hiện đại đầu tiên trên thế giới 1948
ENIAC (viết tắt của Electrical Numerical Integrator and Computer) là máy tính điện tử lập trình được đầu tiên trên thế xuất hiện vào năm 1945. ENIAC có khả năng cấu hình cho mỗi vấn đề bằng cách nối dây giữa nhiều thành phần của nó.
Vài năm sau, Klára Dán von Neumann và nhà khoa học Nicholas Metropolis của phòng thí nghiệm Los Alamos đã kết nối ENIAC để chạy dòng code hiện đại đầu tiên trên thế giới.
3. Trò chơi điện tử đầu tiên trên thế giới
Cuối năm 1961, một nhóm sinh viên và nhân viên trẻ của MIT bắt đầu được tiếp cận máy tính DEC PDP-1, máy tính dân sự hàng đầu lúc đó với giá 120.000 USD (hơn 1 triệu USD ngày nay). Máy tính này có độ dài câu lệnh tới 18-bit và sử dụng băng giấy làm bộ nhớ lưu trữ.
Sau 5 tháng, họ đã tạo nên trò chơi điện tử đầu tiên - Spacewar. Trong game, 2 người chơi sẽ cùng điều khiển các con tàu không gian để né trọng lực của một ngôi sao ở giữa màn hình đồng thời tham gia vào trận chiến. Trò chơi này đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ trò chơi điện tử sau này.
4. Sự khởi đầu của email năm 1965
Năm 1961, các hacker của Học viện MIT đã tạo ra một hệ thống cho phép hàng loạt người dùng đăng nhập vào cùng một máy tính và để lại các tin nhắn ngắn cho nhau.
Năm 1965, một nhóm các coder đã tạo ra một hệ thống câu lệnh chính thức cho việc gửi, nhận và hiển thị các thông điệp kỹ thuật số nhỏ này. Và đến năm 1971, Nhưng sau tin nhắn rác đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện, đó là thông điệp chống Chiến tranh Việt Nam.
5. Bailout, dòng code giúp Apollo 11 chinh phục Mặt trăng năm 1969
AGC, máy tính dẫn đường của tàu Apollo 11 có sức mạnh tính toán còn yếu hơn cả một thiệp chúc mừng hiện nay.
Do không gian lưu trữ và năng lượng hoạt động của máy tính trên tàu vũ trụ đều bị giới hạn nên mỗi tác vụ trên AGC đều phải được tính toán cẩn thận để nó không hết bộ nhớ. Nhóm phát triển AGC đã tạo ra BAILOUT, dòng code có thể lập lịch cho các hoạt động ít quan trọng hơn để giúp AGC có thể tiếp tục xử lý các tác vụ quan trọng khác. Khi máy tính có nguy cơ hết dung lượng (hoặc tràn bộ nhớ), AGC sẽ kích hoạt BAILOUT.
Khi tàu đổ bộ Eagle cách bề mặt Mặt Trăng khoảng 9km, AGC phát ra tín hiệu cảnh báo "1202" - lỗi cho biết máy tính sắp quá tải. Khi đó, AGC đã kích hoạt câu lệnh BAILOUT. Các nhiệm vụ không quan trọng được AGC bỏ qua để tập trung vào các công việc quan trọng hơn giúp chuyến hành trình được tiếp tục.
BAILOUT sau đó còn giải cứu cho AGC thêm 3 lần nữa trước khi Neil Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng.
6. Hello word năm 1972
Khi học một ngôn ngữ lập trình, câu lệnh đầu tiên mà bạn được hướng dẫn là khiến máy tính hiển thị dòng chữ "Hello, World" (Xin chào thế giới). Câu lệnh này xuất hiện từ năm 1972 và trở nên nổi tiếng khi xuất hiện trong hướng dẫn về Ngôn ngữ lập trình C vào năm 1974. Và cho tới nay nó đã trở thành một giải pháp dễ dàng và thân thiện giúp minh họa sự khác nhau giữa các ngôn ngữ lập trình.
7. Chuỗi Null - Terminated String năm 1972, lỗi thiết kế tồi tệ nhất trong lịch sử phần mềm
Năm 1972, Dennis Ritchie đã quyết định biểu diễn văn bản bằng ngôn ngữ lập trình mới của mình được gọi là C với một thứ được gọi là chuỗi kết thúc null (null-terminated string). Và di sản của nó đã đi cùng chúng ta từ thời điểm đó đến nay.
8. Ứng dụng chat đầu tiên trên thế giới Internet Rely chat năm 1988
Internet Relay Chat hay IRC, chương trình phổ biến đầu tiên cho phép mọi người chat nhóm với nhau. Nó xuất hiện từ trước khi đa số mọi người biết internet là gì.
Người dùng phải gõ một dòng lệnh như "/join #[tên kênh chat]" để tham gia vào một kênh chat nào đó.
Để nói gì đó về bản thân mình, bạn có thể gõ "/me is so tired," kênh chat sẽ hiển thị tên bạn cùng với từ "so tired" cạnh một dấu sao. Đây là điểm khởi đầu cho các ứng dụng trò chuyện và việc sử dụng câu lệnh trên máy tính ngày nay.
9. Sâu Morris năm 1988
Sâu Morris phát tán lên mạng vào ngày 2 tháng 11 năm 1988. Nó là ảnh hưởng tới khoảng 10% trong tổng số 60.000 máy tính có kết nối internet lúc đó và gây ra thiệt hại hàng triệu USD. Sâu Morris và đã khiến tờ New York Times lần đầu phải nhắc đến từ "internet".
Morris, khi đó mới chỉ là một sinh viên 23 tuổi của trường Cornell, người viết nên sâu máy tính này cũng bất ngờ về mức độ tàn phá khủng khiếp của nó. Sau vụ tấn công, Morris là người đầu tiên bị truy tố theo Đạo luật Lạm dụng và Lừa đảo Máy tính của Mỹ.
10. Đường dẫn siêu liên kết HTML Hyperlink năm 1988
Hyperlink, một đoạn code ngắn gọn giúp bất kỳ ai cũng có thể truy cập vào thế giới Web.
11. Sự xuất hiện của JPEG năm 1992
Năm 1992, tổ chức Joint Photographic Experts Group công bố các thông số của một tiêu chuẩn mới - JPEG.
JPEG tận dụng được định dạng nén mất dữ liệu (lossy compression) loại bỏ một số chi tiết trên hình ảnh mà mắt người không nhận ra được để dữ liệu mỗi hình ảnh nhỏ hơn.
Sau khi ra mắt, JPEG nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn trên toàn cầu, một phần vì miễn phí bản quyền.
Định dạng nén mất dữ liệu cũng tạo tiền đề cho sự ra mắt của file nhạc MP3 - định dạng âm thanh loại bỏ bớt một số dữ liệu mà tai người không thể phát hiện được, vào năm
12. Trình duyệt Mosaic năm 1993
Trước khi trình duyệt Mosaic xuất hiện, các trình duyệt khác thưởng hiển thị khác phức tạp buộc người dùng phải xem hình ảnh ở một cửa sổ riêng biệt.
Nhóm hacker Mosaic, đứng đầu là Marc Andressen, đã tạo ra trình duyệt Mosaic để hiển thị hình ảnh và text ngay cạnh nhau làm cho web trông giống một tờ báo hoặc một tạp chí kỹ thuật số, thân thiện hơn với người dùng.
13. Tracking Pixel
Các đoạn code HTML nhỏ xíu này là nền tảng cho cả ngành công nghiệp quảng cáo kỹ thuật số và là trung tâm cho hàng loạt vấn đề như giám sát, theo dõi, hợp nhất ngành truyền thông và thậm chí cả tin giả.
Ban đầu, các hình ảnh trong suốt 1 pixel này được tạo ra là để điều chỉnh layout của trang web. Sau đó, các công ty nhận ra rằng, nếu tải xuống các pixel này, một cookie được tải xuống sẽ được kích hoạt cho phép họ theo dõi hoạt động của người dùng trên trang web. Ngoài ra, các pixel này còn giúp các công ty biết được ai đang truy cập và họ ở đâu.
14. Khởi đầu của wikipeida năm 1994
WikiWikiWeb lần đầu được ông Ward Cunningham giới thiệu như một cách đơn giản nhất có thể để chia sẻ thông tin.
Để giúp các nhà biên tập có thể cập nhật và tổ chức thông tin liên kết giữa các trang, Ward Cunningham đã sử dụng một ngôn ngữ đánh dấu cơ bản, bao gồm các dấu ngoặc đơn, xâu chuỗi các từ với nhau mà không có dấu cách và dấu nháy đơn xung quanh văn bản. Cho tới nay, hệ thống này vẫn được sử dụng rộng rãi trên các trang wiki, bao gồm cả Wikipedia ra mắt vào năm 2001.
15. Thuật toán pagerank của Google năm 1996
Trước khi PageRank xuất hiện, các cỗ máy tìm kiếm chỉ cố gắng tìm thông tin dựa trên việc từ khóa có khớp với từ có sẵn trong tài liệu mà thôi.
Sau đó, Larry Page và Sergey Brin, hai nhà sáng lập của Google đã tạo ra PageRank, thuật toán xếp hạng mức độ liên quan của trang web dựa trên việc có bao nhiêu trang liên kết với nó.
Thuật toán này có vai trò quan trọng trong việc sắp xếp thứ hạng trên internet, và đặt nền móng cho Google để trở thành một người khổng lồ công nghệ như ngày nay.
16. Bitcoin năm 2008
Năm 2008, Satoshi Nakamoto, một nhà sáng tạo ẩn danh đã công bố sách trắng về việc ra mắt Bitcoin. Các dòng code này cho thấy khả năng một ai đó tấn công và chiếm lấy chuỗi blockchain Bitcoin là vô cùng thấp. Điều này đã thuyết phục thế giới rằng nó đáng tin cậy như thế nào.
Cho đến nay, Bitcoin đã mở đường cho việc tạo ra gần 3.000 đồng tiền số khác nhau.
17. Nút like Facebook năm 2009
Nút like Facebook giúp người dùng thể hiện sự đồng tình với một nội dung nào đó trên mạng xã hội này. Tuy nhiên, cho tới nay nút Like trở thành công cụ giúp Facebook đi theo chúng ta khắp mọi nơi trên internet và thu thập mọi dữ liệu về thói quen lướt web của người dùng.