Smartphone có thể thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta như thế nào?

Các thiết bị kỹ thuật số thu hút sự chú ý của con người giống như một vật phụ thuộc mới. Liệu rằng Smartphone có thể thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta không?

Điện thoại thông minh có thể dễ dàng kết nối, lưu trữ dữ liệu và chỉ đường. Nhưng chính xác những gì mà công nghệ kỹ thuật số làm thay đổi bộ não của chúng ta vẫn còn là một câu hỏi chưa được giải đáp.

Điện thoại thông minh có thể dễ dàng kết nối, lưu trữ dữ liệu và chỉ đườngNguồn ảnh: TASSII / ISTOCKPHOTO

Cách đây không lâu, Internet đã dần ổn định. Hầu hết, chúng ta duyệt web từ máy tính để bàn trong phòng khách hoặc văn phòng. Nếu cảm thấy điều đó có phần mạo hiểm, chúng ta sẽ mang laptop của mình đến một cửa hàng cà phê chẳng hạn. Những ngày đó có vẻ kỳ quặc phải không?

Ngày nay, Internet di chuyển thông qua cuộc sống hàng ngày của con người. Chúng ta săn Pokémon khi đi trên vỉa hè, nhắn tin lúc chờ đèn đỏ và tweet từ phòng tắm. Thậm chí, có thể ngủ ngay khi trên tay còn cầm điện thoại, chúng ta sử dụng nó như thiết bị ru ngủ và đồng hồ báo thức. Đôi khi chúng ta có thể để điện thoại xuống trong khi ăn, nhưng thường đối diện với nó cả ngày, chỉ trong trường hợp có một điều gì đó quan trọng xảy ra.

Những chiếc điện thoại thông minh như iPhone, Android và nhiều loại khác khiến chúng ta điều chỉnh hành vi của mình một cách dễ dàng. Công nghệ điện thoại di động đã thay đổi thói quen lái xe, phong cách hẹn hò và thậm chí cả tư thế của chúng ta. Mặc dù hiện nay một số bài báo với nhan đề cho rằng công nghệ số đang làm hỏng bộ não của chúng ta, không kể đến những gì nó làm cho con cái chúng ta, chúng ta đã hoan nghênh "đối tác cuộc sống quyến rũ" này bằng bàn tay mở rộng cùng ngón tay cái vuốt vuốt.

Các nhà khoa học nghi ngờ rằng những tương tác liên tục không thay đổi với công nghệ số có thể gây ảnh hưởng đến não bộ. Những nghiên cứu nhỏ đưa ra gợi ý rằng thiết bị công nghệ số có thể thay đổi cách ghi nhớ, cách điều hướnglàm thế nào để tạo ra hạnh phúc - hoặc không.

90% người Mỹ báo cáo sử dụng thiết bị công nghệ trước giờ đi ngủ

Nguồn: Michael Gradisar et al/J. Clin. Sleep Med. 2013

49% sinh viên Đại học ở Hoa Kỳ báo cáo kiểm tra điện thoại ít nhất một lần qua đêm

Nguồn: L. Rosen et al/Sleep Health 2016

Mặc dù điều này hơi hạn chế nhưng đôi khi những phát hiện mâu thuẫn cho thấy khoa học đã cố gắng khắc phục hiện tượng "trượt nhanh" như thế nào. Các nghiên cứu được tiến hành trong phòng thí nghiệm gợi ý rằng công nghệ và sự gián đoạn liên tục của smartphone có thể thay đổi các chiến lược suy nghĩ của con người. Giống như chồng và vợ của chúng ta, thiết bị di động đã trở thành "bộ nhớ của đối tác", cho phép chúng ta lưu giữ thông tin ở đó và quên nó đi - "giảm tải dữ liệu" đi kèm với những lợi ích và hạn chế. Các chiến lược định vị có thể đang chuyển đổi trong kỷ nguyên GPS, một sự thay đổi có thể phản ánh trong cách não bộ sắp xếp địa điểm của nó trên thế giới. Thậm chí, tương tác liên tục với công nghệ có thể làm tăng sự lo lắng ở một số môi trường nhất định.

Tuy nhiên, một nghiên cứu lớn đã hỏi mọi người về cuộc sống số của họ cho thấy việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số ở mức độ vừa phải không có ảnh hưởng xấu đến tinh thần.

Smartphone

Câu hỏi về cách công nghệ giúp đỡ và cản trở suy nghĩ của chúng ta khá khó để có thể trả lời. Cả phòng thí nghiệm và nghiên cứu quan sát đều có nhược điểm. Nhà tâm lý học thực nghiệm Andrew Przybylski của trường Đại học Oxford cho biết: "Các giới hạn nhân tạo của nghiên cứu trong phòng thí nghiệm dẫn đến những quan sát, những hiểu biết không giới hạn, có thể không áp dụng cho cuộc sống thực. Điều này giống với việc rút ra kết luận về những ảnh hưởng của bóng chày trên não bộ người chơi sau khi quan sát ba cú đánh trong lồng đánh bóng."

Tuy nhiên, các nghiên cứu quan sát về hành vi trong thế giới thực lại tạo ra các liên kết chứ không phải chỉ ra nguyên nhân. Thật khó để có thể rút ra những hiệu quả thực sự từ trong sự hỗn loạn của cuộc sống. Một số nhà khoa học cho biết: "Mục tiêu đề ra là thiết kế các nghiên cứu nhằm đưa từ sự khắt khe của phòng thí nghiệm đến sự phức tạp của cuộc sống thực, rồi sau đó sử dụng những hiểu biết sâu sắc để hướng dẫn hành vi của con người. Nhưng đó là một mục tiêu lớn và có thể mục tiêu mà các nhà khoa học đề ra không bao giờ đạt được".

Nhà thần kinh học tiến hóa Leah Krubitzer thoải mái với sự mơ hồ về khoa học này. Leah Krubitzer không đưa ra đánh giá tích cực hay tiêu cực cho "digital landscape" hiện nay. "Không tốt cũng không xấu, chỉ là sự lặp lại thay đổi môi trường một cách liên tục", Krubitzer, thuộc trường Đại học California, Davis, cho biết:

"Tôi có thể nói với bạn chắc chắn rằng công nghệ đang thay đổi bộ não của chúng ta. Chỉ là cho đến nay, không ai biết những thay đổi đó có ý nghĩa gì mà thôi", Leah Krubitzer nói thêm.

Tất nhiên, gần như mọi thứ đều có thể làm thay đổi não bộ. Việc đào tạo âm nhạc định hình lại các bộ phận của não, học về các con đường phức tạp của London phình ra như một cấu trúc lập bản đồ trong não bộ. Ngay cả việc ngủ ngon giấc cũng làm thay đổi bộ não. Mọi khía cạnh của môi trường đều có thể ảnh hưởng đến trí não và hành vi. Do đó, công nghệ số cũng không khác. Tuy nhiên, một số nhà khoa học nghi ngờ rằng có thể có một thứ gì đó đặc biệt độc hại trong sự kìm kẹp của công nghệ số trên não.

Nhà sinh học thần kinh Adam Gazzaley của trường Đại học California, San Francisco cho biết: "Chúng ta là những sinh vật tìm kiếm thông tin. Chúng ta đang hướng tới bằng những cách rất mạnh mẽ. Công cụ kỹ thuật số ngày nay cho chúng ta cơ hội tiếp xúc chưa từng thấy với các thông tin không chờ đợi bạn tìm ra mà nó tìm kiếm bạn. Sự lôi kéo đó gần như không thể cưỡng lại được".

Mặc dù có rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời về việc liệu các thiết bị kỹ thuật số có ảnh hưởng đến trí não và hành vi của chúng ta hay không và cho dù tốt hay xấu, công nghệ số cũng đang tiến lên phía trước. Krubitzer nói: "Đáng ra, chúng ta nên tự đặt ra những câu hỏi như vậy vào năm 70 - 80. Bây giờ thì quá trễ rồi. Chúng ta đang đóng cửa nhà kho sau khi ngựa chạy ra vậy."

Screentime - Bảng thời gian

Screentime - Bảng thời gian

Một nhóm ở Anh đã thiết kế ứng dụng Android để theo dõi việc sử dụng điện thoại di động trong sinh viên và nhân viên của trường Đại học Lincoln trong 15 ngày. Ứng dụng được đăng ký khi màn hình của điện thoại bật lên và sau đó tắt, các biểu đồ như hình dưới đây mô tả hoạt động hàng ngày của một người dùng điện thoại bình thường. Các thanh rộng hơn nghĩa là thời gian sử dụng điện thoại lâu hơn. Tất nhiên, việc sử dụng đồng hồ báo thức để dậy vào các ngày trong tuần là điều bình thường. Thứ bảy được đánh dấu bằng đường kẻ đứt màu đỏ.

Tìm kiếm thông tin

Sự khác biệt giữa công nghệ số ngày nay với những tiến bộ ban đầu (như điện thoại cố định) là thời gian mà mọi người dành với nó. Chỉ trong vòng một thập kỷ, điện thoại thông minh đã bão hòa thị trường, cho phép truy cập Internet tốc độ cao tới khoảng 2 tỷ người trên thế giới. Trong một nghiên cứu nhỏ được báo cáo vào năm 2015, 23 người trưởng thành ở độ tuổi từ 18 đến 33, dành trung bình 5 giờ mỗi ngày để sử dụng điện thoại, chia thành 85 lần sử dụng khác nhau trong ngày. Khi được hỏi có bao nhiêu lần họ nghĩ họ đã sử dụng điện thoại, thì chỉ có một nửa người tham gia đánh giá.

Trong một nghiên cứu khác, Larry Rosen, nhà tâm lý học tại trường Đại học Bang California, Dominguez Hills, đã sử dụng ứng dụng giám sát tần suất sinh viên đại học mở khóa điện thoại. "Sinh viên thường kiểm tra điện thoại của họ trung bình 60 lần/ngày, mỗi lần kéo dài khoảng ba đến bốn phút tổng cộng khoảng 220 phút/ngày. Đó là sự gián đoạn", Rosen nói.

Liệu tôi đã bỏ lỡ điều gì đó hay không?

Liệu tôi đã bỏ lỡ điều gì đó?Trong một nghiên cứu nhỏ ở 104 sinh viên đại học, hơn một nửa đã mở khóa điện thoại của họ hơn 60 lần/ngày. Nguồn ảnh: L. Rosen

"Điện thoại thông minh có mặt ở mọi nơi trên thế giới 24/7 và như vậy, nó gần giống như một vật phụ không thể thiếu. Thường thì, chúng ta buộc phải nhìn vào vật dụng mới này, bởi chúng hấp dẫn hơn là những gì xung quanh chúng ta. Thiết bị này thực sự mạnh mẽ, làm ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta. Nó đã làm thay đổi cách chúng ta nhìn thế giới", Rosen nói

Công nghệ đã làm điều đó. Theo ông Przybylski cho biết, báo in, báo điện tử, ti vi và điện thoại đều làm thay đổi thói quen của con người. Nhưng sự mãnh liệt về công nghệ kỹ thuật số đã làm tan chảy não bộ của con người và cuộc sống xã hội đang bị tàn phá chỉ là hiện thân mới nhất của sự sợ hãi thay đổi tuổi già. "Bạn phải tự hỏi bản thân rằng, 'Có điều gì kỳ diệu về sức mạnh của màn hình LCD hay không?", Przybylski nói.

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng có một thứ gì đó đặc biệt hấp dẫn trong sự tiến bộ này. "Nó có sự khác biệt. Máy vi tính, Internet và đám mây được 'nhúng' trong cuộc sống của chúng ta. Phạm vi của số lượng thông tin mà chúng tôi có trong tầm tay có thể vượt quá bất cứ điều gì chúng ta từng trải qua. Sự cám dỗ trở nên thực sự phụ thuộc vào nó dường như lớn hơn", nhà tâm lý học Benjamin Storm của trường Đại học California, Santa Cruz nói.

Bộ nhớ outsourcing

"Công nghệ số có thể khuyến khích sự tin cậy nhiều hơn, ít nhất là bộ nhớ", nghiên cứu của Storm cho thấy. Sáu mươi sinh viên đại học được cung cấp một hỗn hợp các câu hỏi kiến thức dựa trên nhiều lĩnh vực - một số câu dễ, một số câu khó khăn. Nửa số sinh viên phải tự trả lời các câu hỏi; nửa còn lại cho biết sử dụng Internet. Sau đó, họ được đưa ra một loạt các câu hỏi dễ hơn, chẳng hạn như: "Trung tâm của cơn bão được gọi là gì?" Lần này, họ được cho biết có thể sử dụng Internet nếu muốn.

Bộ nhớ outsourcing

Storm và các đồng nghiệp đã báo cáo trực tuyến vào tháng 7 năm ngoái trong bộ nhớ. "Những người sử dụng Internet ban đầu có nhiều khả năng dựa vào sự giúp đỡ của Internet cho những câu hỏi tiếp theo. Những người đã quen sử dụng Internet tiếp tục làm như vậy, mặc dù họ đã biết câu trả lời. Thói quen lạm dụng quá mức này có thể báo hiệu sự thay đổi trong cách mọi người sử dụng trí nhớ của họ. Chúng ta không còn làm những gì dựa và kiến thức mà chúng ta biết nữa", Storm nói.

Nghiên cứu đó được xây dựng dựa trên các kết quả công bố trong một bài báo năm 2011 trên Science. Một loạt các thí nghiệm cho thấy rằng những người mong muốn có quyền truy cập Internet sau đó 'ít nỗ lực' hơn để nhớ mọi thứ. Bằng cách này, Internet đã có chỗ đứng, trước đây được lấp đầy bởi nhớ ngày sinh nhật, nhớ công thức nấu ăn và nhớ các mã giấy tờ chính xác - được biết chính thức là "đối tác bộ nhớ chuyển đổi".

"Chúng ta đang trở nên đồng cảm với các công cụ máy tính của chúng ta. Trải nghiệm mất kết nối Internet ngày càng trở nên nhiều hơn giống như việc mất đi một người bạn. Chúng ta vẫn phải cắm vào để biết những gì Google biết", Betsy Sparrow ở trường Đại học Columbia và các đồng nghiệp đã viết vào năm 2011.

"Nạng kỹ thuật số không phải là xấu. Trí nhớ con người nổi tiếng là yếu, nhạy cảm với những ký ức sai lạc và quên lãng hoàn toàn. Mặc dù không hoàn hảo nhưng Internet có thể là một nguồn thông tin tốt. Và nó không chắc liệu rằng những kỷ niệm của chúng ta có thực sự tồi tệ hơn, hay chúng ta chỉ thực hiện cùng một mức độ chỉ cần đạt được câu trả lời theo một cách khác", Storm đã chỉ ra.

"Một số người cho rằng trí nhớ đang suy giảm hoàn toàn do chúng tôi sử dụng công nghệ. Những người khác không đồng ý. Dựa trên số liệu hiện tại, tuy nhiên, tôi không nghĩ chúng ta có thể thực sự đưa ra những kết luận mạnh mẽ theo cách này hay cách khác", Storm cho biết thêm.

"Những trở ngại tiềm tàng của bộ nhớ outsourcing này là mơ hồ. Có thể sự phụ thuộc vào kỹ thuật số ảnh hưởng - và có thể làm suy yếu - những phần khác trong suy nghĩ của chúng ta. Nó có thay đổi cách chúng ta học hay không? Liệu có thay đổi cách chúng ta trao đổi thông tin với nhau, xây dựng những câu chuyện của riêng mình, để tạo ra những ý tưởng mới? Có thể có những thứ mà bản thân chúng ta không cần thiết phải nhận thức được không?", Storm nói.

Các nghiên cứu của Gazzaley và công ty khác đã ghi lại những ảnh hưởng của sự gián đoạn và đa nhiệm vụ, những điều khó tránh khỏi với các thông báo tin tức không ngừng, cập nhật trạng thái và Instagrams đang chờ trong túi của chúng ta. "Siphoning attention có thể gây rắc rối với một danh sách dài các kỹ năng tư duy, bao gồm bộ nhớ, sự chú ý, nhận thức và thời gian phản ứng ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, những phát hiện này bắt nguồn từ các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm yêu cầu một người chuyển đổi giữa hai nhiệm vụ trong khi thực hiện quét não, chẳng hạn. Các tác động tương tự không rõ ràng về cuộc sống hàng ngày của chúng ta", Gazzaley nói. Nhưng Gazzaley tin rằng sự gián đoạn liên tục - những tiếng kêu và buzzes - không ngừng kiểm tra điện thoại đang làm ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ của chúng ta.

Tra cứu bản đồ

Ảnh hưởng của công nghệ đang bắt đầu xuất hiện cho một nhiệm vụ nhận thức khác - điều hướng, đặc biệt trong khi lái xe. Thay vì kiểm tra bản đồ và lên kế hoạch trước một chuyến đi, mọi người có thể dựa vào điện thoại thông minh để thực hiện công việc cho họ. Các giai thoại mô tả tuân theo giọng nói GPS chỉ dẫn họ lái xe vào hồ hoặc qua những hàng rào chắn ở lối vào của một cây cầu bị phá một phần chẳng hạn. Nhà khoa học thần kinh nhận thức - Véronique Bohbot của trường Đại học McGill ở Montréal cho biết kỹ năng điều hướng có thể gặp nguy cơ khi chúng ta chuyển sang các cách dễ dàng hơn về thần kinh để tìm ra con đường đi.

Về mặt lịch sử, đi đến đúng điểm yêu cầu để có được mảnh đất, một bản đồ tâm linh của địa hình. Chiến lược đó đòi hỏi nhiều công việc hơn được gọi là "chiến lược phản ứng", kiểu điều hướng bắt đầu bằng lệnh giọng nói điện tử. "Bạn chỉ cần biết câu trả lời - rẽ phải, rẽ trái, đi thẳng. Đó là tất cả những gì bạn biết. Bạn đang lái tự động", Bohbot nói.

Google sinh ra Google

So với những người phải dựa vào bộ nhớ (thanh màu xanh) để trả lời các câu đố khó khăn ban đầu, những người sử dụng Google để tìm câu trả lời (thanh màu đỏ) có nhiều khả năng sử dụng Google cho một loạt câu hỏi dễ dàng tiếp theo. Sự bất tiện (phải thức dậy từ ghế sofa để lấy máy tính hoặc iPod Touch) đã không dừng việc Googling.

Google sinh ra GoogleNguồn: B.C. Storm, S.M. Đá và A.S. Benjamin / Bộ nhớ 2016

Một chiến lược ứng phó dễ dàng hơn, nhưng mang lại ít kiến ​​thức hơn. Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy những người đi qua một thị trấn ở Nhật bằng sự hướng dẫn của con người đã làm tốt hơn khi sử dụng GPS.

Các nhà khoa học đang tìm kiếm dấu hiệu cho thấy các trò chơi điện tử thường khiến mọi người gặp nhiều tình huống phản ứng nặng nề, ảnh hưởng đến cách mọi người xung quanh. Trong một nghiên cứu nhỏ, Bohbot và các đồng nghiệp báo cáo vào năm 2015 trong Proceedings of the Royal Society B phát hiện ra rằng: "Những người dành trung bình 18 giờ/tuần chơi trò chơi điện tử như Call of Duty lái xe khác với những người không chơi điện tử. Khi được thử nghiệm trên mê cung ảo, người chơi điện tử hành động có xu hướng sử dụng chiến lược học tập phản hồi đơn giản hơn để vượt qua".

Loại điều khiển "response navigation" dễ dàng hơn phụ thuộc vào nhân đuôi (caudate nucleus), khu vực não được cho là có liên quan đến việc hình thành thói quen và "nghiện". Ngược lại, các tế bào thần kinh trong hồi hải mã (hippocampus là một phần của não trước, một cấu trúc nằm bên trong thuỳ thái dương) giúp tạo ra các bản đồ tinh thần của thế giới và hỗ trợ việc điều hướng phức tạp hơn. Một số kết quả cho thấy những người sử dụng phương pháp phản ứng có hạt nhân đuôi lớn hơn và hoạt động não nhiều hơn ở đó. Ngược lại, những người sử dụng chiến lược không gian yêu cầu một bản đồ tâm thần có hồi hải mã lớn hơn, bận rộn hơn.

Những kết quả trên trình phát trò chơi điện tử là sơ bộ và cho thấy một liên kết trong một nhóm có thể chia sẻ những điểm tương đồng gây nhiều tiềm ẩn. Tuy nhiên, có thể là thói quen tinh thần dễ thay đổi - cách mọi người điều hướng. "Công nghệ số không phải là chính nó để đổ lỗi. Đó không phải là công nghệ nhất thiết phải tốt hay xấu đối với bộ não. Đó là cách chúng ta sử dụng công nghệ. Chúng ta có khuynh hướng sử dụng theo cách dễ dàng nhất, không cần phải nỗ lực nhiều", Bohbot nói.

Các bộ phận của não bộ, bao gồm những người sử dụng điều hướng, có nhiều công việc. Thay đổi một khía cạnh chức năng não bằng một loại hành vi có thể liên quan đến các khía cạnh khác của cuộc sống. Một nghiên cứu nhỏ của Bohbot cho thấy những người di chuyển bằng cách dựa vào hạt nhân đuôi hút thuốc lá nhiều hơn, uống nhiều rượu hơn và có nhiều khả năng sử dụng cần sa hơn so với những người dựa vào vùng hồi hải mã. Những gì làm nên mối liên hệ đó vẫn còn rất nhiều trong không khí.

Các nhà nghiên cứu khác đang cố gắng giải quyết các câu hỏi về cách thức công nghệ ảnh hưởng đến quan điểm tâm lý của chúng ta. Rosen và các đồng nghiệp đã đưa ra những đầu mối rằng các thiết bị số đã trở thành nguồn lo lắng cho mọi người.

45% người có độ tuổi từ 14 đến 18 báo cáo luôn hoặc gần như nhắn tin trong khi xem TV.

Nguồn: Deloitte 2016 Digital Democracy Survey

Trong những thí nghiệm nghiêm ngặt, Rosen ở California State đưa điện thoại của sinh viên đại học ra xa, với mục đích rằng các thiết bị đang can thiệp vào phép đo ứng suất trong phòng thí nghiệm như nhịp tim và đổ mồ hôi. Những chiếc điện thoại được để lại, nhưng đặt ngoài tầm với của sinh viên, những người đang đọc một đoạn văn. Sau đó, các nhà nghiên cứu bắt đầu nhắn tin cho học sinh, những người buộc phải lắng nghe những thông điệp không mong muốn. Đo lường sự lo lắng căng thẳng, Rosen đã tìm thấy và đọc hiểu rõ.

Các thí nghiệm khác cho thấy những người sử dụng công nghệ kéo dài khoảng 10 phút mà không có điện thoại trước khi có dấu hiệu lo lắng.

Về cơ bản, sự gián đoạn trong việc truy cập điện thoại thông minh không khác gì những ngày trước khi có điện thoại thông minh, khi điện thoại cố định rung lên lúc bạn bước vào nhà với nhiều túi đầy đủ các cửa hàng tạp hóa, vì vậy bạn đã bỏ lỡ cuộc gọi. Cả hai tình huống trên đều có thể làm tăng lo lắng về kết nối bị bỏ lỡ. Tuy nhiên, Rosen nghi ngờ rằng sự phụ thuộc của chúng ta vào công nghệ số khiến những tình huống này xảy ra thường xuyên hơn.

"Công nghệ này thật tuyệt vời. Nói như vậy, tôi nghĩ rằng cuộc bắn phá liên tục này cần phải kiểm tra, cần phải được kết nối, cảm giác của tôi không thể bị ngắt kết nối, không thể ngừng lại trong năm phút. Điều đó sẽ mang một hiệu quả lâu dài", Rosen nói.

Vấn đề liệu công nghệ số tốt hay xấu đối với con người gần như không thể trả lời, nhưng trong một cuộc khảo sát 120.000 người Anh ở độ tuổi 15 (99.5% báo cáo sử dụng công nghệ hàng ngày). Przybylski của Oxford và Netta Weinstein tại trường Đại học Cardiff ở xứ Wales đã đưa ra những gợi ý rằng sử dụng công nghệ số ở mức độ vừa phải - TV, máy tính, trò chơi điện tử và điện thoại thông minh - tương quan với sức khoẻ tinh thần tốt, được đo bằng các câu hỏi về hạnh phúc, hài lòng của cuộc sống và hoạt động xã hội.

Khi các nhà nghiên cứu lên kế hoạch sử dụng công nghệ để chống lại tinh thần thoải mái, một đường cong trong hình nổi lên, làm nổi bật những gì các nhà nghiên cứu gọi là "Goldilocks spot" của công nghệ sử dụng - không quá ít và không quá nhiều.

Przybylski nói: "Chúng tôi thấy rằng bạn phải soạn thảo rất nhiều tin nhắn văn bản. Đối với việc sử dụng điện thoại thông minh, sự chuyển đổi nhẹ nhàng có thể gây hại đến nếu sử dụng hơn hai giờ vào các ngày trong tuần - phân tích toán học cho thấy". "Việc sử dụng máy tính giải trí thường có giới hạn dài hơn: 4 tiếng 17 phút", các nhà nghiên cứu đã viết trong Psychological Science vào tháng hai.

Màn hình về độ tuổi

Dựa trên một cuộc điều tra gồm 14 câu hỏi về hạnh phúc và sự hài lòng trong cuộc sống, dường như làm thay đổi số giờ sử dụng phương tiện kỹ thuật số. Độ tuổi trung bình giữa 40 và 50. Mỗi loại phương tiện truyền thông đều có một điểm tốt, cho thấy rằng sử dụng công nghệ kỹ thuật số ở mức độ vừa phải có thể có lợi.

Màn hình độ tuổiNguồn: A.K. Przybylski và N. Weinstein / Khoa học Tâm lý 2017

"Đối với những người sử dụng nhiều, mối quan hệ giữa sử dụng công nghệ và sức khoẻ tinh thần kém hơn không phải là tất cả. Những ảnh hưởng tiêu cực tiềm ẩn trong toàn bộ thời gian trên màn hình đó ít hơn 1/3 kích thước của ảnh hưởng tích cực khi ăn sáng", Przybylski và Weinstein phát hiện.

"Ngay cả khi, mối quan hệ giữa sử dụng công nghệ và sức khoẻ tinh thần kém hơn, các nhà khoa học vẫn không biết tại sao. Có lẽ hiệu ứng này xuất phát từ việc thay thế một thứ gì đó, chẳng hạn như tập thể dục hay giao tiếp xã hội, chứ không phải là công nghệ", Przybylski nói.

Chúng ta không bao giờ có thể biết được đồ chơi kỹ thuật số hình thành trong não bộ của chúng ta như thế nào. Công nghệ luôn thay đổi nhanh chóng. Não bộ của chúng ta phải đáp ứng và thích nghi với nó.

Krubitzer cho biết: "Neocortex - tân vô não của con người cơ bản tạo ra bản thân nó qua các thế hệ kế tiếp. Đó là điều mà mọi người lớn lên trong môi trường kỹ thuật số, sẽ có bộ não phản ánh môi trường đó. Chúng ta đã sử dụng đá để cạo hạt trong việc nhắn tin hàng ngày. Rõ ràng não bộ của chúng ta đã thay đổi."

Có thể những thay đổi này là một điều tốt, có lẽ tốt hơn để chuẩn bị cho thế hệ sau này thành công trong một thế giới kỹ thuật số. Hoặc có thể chúng ta sẽ khám phá ra rằng khi chúng ta không còn phải cố gắng ghi nhớ số điện thoại của người thân, một điều quan trọng sẽ lặng lẽ trôi đi.

Bài viết này được đăng tải trên Science News vào ngày 1 tháng 4 năm 2017, với tiêu đề "Digital minds: Are smartphones changing our brains?" (Tạm dịch: "Tâm trí số: Smartphone có làm thay đổi bộ não của chúng ta hay không?").

Tham khảo thêm một số bài viết:

Chúc các bạn vui vẻ!

Thứ Bảy, 01/04/2017 13:00
51 👨 764
0 Bình luận
Sắp xếp theo