Những cải tiến y học nổi bật trong Nội chiến

Cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng có tác động lâu dài đến sức khỏe và y học. Dưới đây là những cải tiến y hoc nổi bật trong Nội chiến ở Mỹ.

Cách mạng y học

Cắt cụt để cứu sống bệnh nhân

Kỹ thuật chiến trường cũ là cố gắng cứu các chi bằng liều TLC (có sự hỗ trợ của chuột và giòi làm sạch vết thương) đã không còn được ưa chuộng trong Nội chiến, ngay cả đối với các sĩ quan cấp cao. Số lượng người bị thương quá lớn và các bác sĩ phẫu thuật chiến tranh phát hiện ra rằng cách tốt nhất để ngăn ngừa nhiễm trùng chết người chỉ đơn giản là cắt bỏ phần cơ thể bị thương—một cách nhanh chóng.

Trong số những người được cứu bằng cưa có Daniel E. Sickles, chỉ huy lập dị của Quân đoàn 3. Năm 1863, tại Trận Gettysburg, chân phải của thiếu tướng đã bị một quả đạn pháo của Liên minh miền Nam bắn vỡ. Trong vòng một giờ, chân đã bị cắt cụt ngay trên đầu gối. Quy trình của ông, được công bố trên báo chí quân sự, đã mở đường cho nhiều ca tương tự khác. Vì Bảo tàng Y khoa Quân đội mới ở Washington, D.C., đã yêu cầu quyên góp mẫu bệnh phẩm cho chiến trường, Sickles đã gửi nó cho họ trong một hộp có ghi nhãn  “With the compliments of Major General D.E.S.”  -"Cùng lời khen ngợi của Thiếu tướng D.E.S." Sickles đến thăm chân ông hàng năm vào đúng ngày kỷ niệm sự ra đi của nó.

Cắt cụt đã cứu được nhiều mạng sống hơn bất kỳ thủ thuật y khoa nào khác trong thời chiến bằng cách ngay lập tức biến những vết thương phức tạp thành những vết thương đơn giản. Các bác sĩ phẫu thuật trên chiến trường cuối cùng chỉ mất không quá sáu phút để đưa từng người đàn ông đang rên rỉ lên bàn, áp một chiếc khăn tay thấm chloroform hoặc ether vào mũi anh ta và thực hiện một đường cắt sâu. Các bác sĩ phẫu thuật của Liên bang đã trở thành những người cắt chi lành nghề nhất trong lịch sử. Ngay cả trong những điều kiện tồi tệ, họ chỉ mất khoảng 25 phần trăm bệnh nhân của mình - so với tỷ lệ tử vong là 75 phần trăm trong số những thường dân bị thương tương tự vào thời điểm đó. Các kỹ thuật do các bác sĩ phẫu thuật thời chiến phát minh ra - bao gồm cắt càng xa tim càng tốt và không bao giờ cắt qua các khớp - đã trở thành tiêu chuẩn.

Máy xông khí gây mê

Năm 1863, bác sĩ phẫu thuật của Stonewall Jackson đã đề nghị cắt bỏ cánh tay trái của ông, cánh tay đã bị thương nặng do hỏa lực. Khi một miếng vải tẩm chloroform được đặt lên mũi ông, trong cơn đau dữ dội, đã cầu nguyện, trước khi trở nên yếu ớt.

Tuy nhiên, quân đội Liên minh miền Nam đã gặp khó khăn trong việc đảm bảo đủ thuốc gây mê vì sự phong tỏa của Liên bang. Phương pháp tiêu chuẩn là ngâm khăn tay bằng chloroform đã lãng phí chất lỏng khi nó bốc hơi. Tiến sĩ Julian John Chisolm đã giải quyết được tình thế tiến thoái lưỡng nan này bằng cách phát minh ra một bình xịt 2,5 inch, loại đầu tiên thuộc loại này. Chloroform được nhỏ giọt qua một vòng tròn đục lỗ ở bên cạnh vào một miếng bọt biển ở bên trong; khi bệnh nhân hít vào qua các ống, hơi thuốc sẽ hòa lẫn với không khí. Phương pháp mới này chỉ cần một phần tám ounce chloroform, so với liều lượng cũ là 2 ounce. Vì vậy, trong khi các bác sĩ phẫu thuật đã hạ gục bệnh nhân của họ 80.000 lần trong suốt cuộc chiến, quân nổi dậy đã điều trị cho gần như nhiều bệnh nhân như vậy chỉ với một phần nhỏ lượng thuốc dự trữ.

Y học thời chiến tranh

Khép vết thương ở ngực

Vào đầu cuộc chiến, Benjamin Howard, một bác sĩ phẫu thuật trẻ, đã được đưa đến tuyến sau với nhiệm vụ: thay băng, khâu vết thương và lấy thức ăn cho bác sĩ. Nhưng khi các bác sĩ phẫu thuật khác quyết định rằng không cần phải điều trị vết thương ở ngực, Howard đã thử nghiệm một quy trình cứu sống mới.

Vào đầu cuộc chiến, vết thương ở ngực mất nhiều máu gần như chắc chắn là bản án tử hình. Trong số những người lính Pháp bị bắn vào ngực trong Chiến tranh Crimea (1853–1856), chỉ có 8 phần trăm sống sót. Vấn đề, như Howard nhận ra, không phải là bản thân vết thương, mà là do lực hút. Áp suất âm trong lồng ngực được tạo ra bởi lỗ mở trong khoang ngực. Hiệu ứng này thường khiến phổi bị xẹp, dẫn đến ngạt thở.

Vị bác sĩ trẻ này phát hiện ra rằng nếu anh ta khâu vết thương bằng chỉ kim loại, sau đó xen kẽ các lớp băng bằng vải lanh và một vài giọt collodion (một dung dịch dạng siro tạo thành màng dính khi khô), anh ta có thể tạo ra một lớp niêm phong kín khí. Tỷ lệ sống sót tăng gấp bốn lần và sáng kiến ​​của Howard sớm trở thành phương pháp điều trị tiêu chuẩn.

Phẫu thuật tái tạo khuôn mặt

Carleton Burgan ở Maryland đã ở trong tình trạng tồi tệ. Binh nhì 20 tuổi này đã sống sót sau căn bệnh viêm phổi, nhưng những viên thuốc thủy ngân mà anh ta uống để điều trị đã dẫn đến chứng hoại tử, nhanh chóng lan từ miệng đến mắt và dẫn đến việc phải cắt bỏ xương gò má phải. Anh ta sẵn sàng thử bất cứ điều gì để phục hồi khuôn mặt của mình. Trong một loạt các ca phẫu thuật tiên phong vào năm 1862, một bác sĩ phẫu thuật từ Bệnh viện Thành phố ở New York đã sử dụng các vật cố định răng và mặt để lấp đầy phần xương bị mất cho đến khi khuôn mặt của Burgan lấy lại được hình dạng.

Bác sĩ là Gurdon Buck, hiện được coi là cha đẻ của phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại. Trong chiến tranh, ông và các bác sĩ phẫu thuật Liên bang khác đã hoàn thành 32 "ca phẫu thuật thẩm mỹ" mang tính cách mạng trên những người lính bị biến dạng. Buck là người đầu tiên chụp ảnh quá trình sửa chữa của mình và là người đầu tiên thực hiện những thay đổi dần dần qua một số ca phẫu thuật. Ông cũng tiên phong trong việc sử dụng các mũi khâu nhỏ để giảm thiểu sẹo.

Đối với một số người, điều này có vẻ khá kỳ quặc, giống như khoa học viễn tưởng vào thế kỷ 19. Một tờ báo Illinois đã mô tả một cách nhiệt tình nhưng sai lầm về các phương pháp điều trị mới: "Sự tiến bộ của khoa y tế ở những nơi này đáng ngạc nhiên đến mức một nửa khuôn mặt của một người đàn ông bị phá hủy bởi một quả bóng hoặc một mảnh vỏ sò được thay thế bằng khuôn mặt nút chai!".

Y học trong thời chiến

Hệ thống xe cứu thương

Hầu hết những người lái xe dân sự trong nội chiến đều không được đào tạo và "có tính cách thấp kém nhất", theo Tiến sĩ Henry Ingersoll Bowditch, một nhà hoạt động có con trai đã chết sau khi nằm bị thương trong nhiều giờ sau một cuộc tấn công. Ông nói thêm rằng nhiều người trong số họ là những kẻ hèn nhát hoặc say rượu.

Jonathan Letterman, giám đốc y tế của Quân đội Potomac, chỉ mất sáu tuần để triển khai một hệ thống tuyệt vời để sơ tán và chăm sóc những người bị thương, trở thành mô hình cho hệ thống xe cứu thương đến phòng cấp cứu mà chúng ta biết ngày nay. Vào ngày 17 tháng 9 năm 1862, Trận Antietam đã khiến 2108 binh lính Liên bang thiệt mạng và gần 10.000 người bị thương. Letterman thành lập đoàn xe gồm 50 xe cứu thương, mỗi xe có một tài xế và hai người khiêng cáng, để đưa những người bị thương đến bệnh viện dã chiến. Ông thuê xe ngựa riêng để chở vật tư y tế nhằm tránh thiệt hại do kẻ thù gây ra cho tuyến đường sắt. Ông thậm chí còn lắp hệ thống treo lò xo cho xe cứu thương và lắp thêm hộp khóa dưới ghế lái để binh lính khó lấy cắp thức ăn, chăn ga gối đệm và morphine dành cho người bị thương.

Thứ Ba, 25/02/2025 12:30
51 👨 98
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
0 Bình luận
Sắp xếp theo
    ❖ Giải trí