Triển khai Data Protection Manager 2007 (Phần 1) Anderson Patricio
Trong phần trước, chúng ta đã triển khai máy chủ DPM và trước khi bắt đầu tìm hiểu về các giao diện quản trị DPM, chúng tôi phải định cấu hình được ba điểm chính:
- Hiểu vị trí và cách DPM sử dụng các phương tiện như thế nào để bảo vệ dữ liệu (đĩa, băng hay cả hai).
- Bổ sung thêm các đĩa vào kho lưu trữ
- Bổ sung thêm các tác nhân vào máy chủ bảo vệ
Sau ba chủ đề ở trên, chúng ta sẽ xem xét đến mỗi lĩnh vực chính của DPM 2007.
Lưu dữ liệu backup trong đĩa, băng từ hoặc cả hai
Một trong những tính năng thú vị của DPM 2007 là khả năng lưu dữ liệu bảo vệ theo nhiều cách khác nhau như dựa trên đĩa, dựa trên băng từ hoặc phương pháp kết hợp cả hai như thể hiện trong hình 1.
Hình 1: Ba phương pháp lưu thông tin dữ liệu (Đĩa, băng từ và kết hợp cả hai)
Khả năng linh động này được thiết lập ở mức nhóm bảo vệ (Protection Group). Bằng sử dụng các phương pháp này, chúng ta có thể cấu hình chu kỳ giới hạn ngắn dữ liệu để có thể lưu trên một đĩa vì khi thực hiện restore từ một đĩa nhanh hơn nhiều so với băng từ. Chúng ta cũng có thể định nghĩa các chu kỳ dài hạn cho dữ liệu để có thể được chuyển vào băng. Tất cả tùy chọn này đều được định nghĩa khi tạo Protection Groups để bảo vệ các máy chủ.
Bổ sung thêm các đĩa vào kho lưu trữ
DPM sử dụng một tập hợp các đĩa lưu trữ gọi là Storage Pool, đây chính là nơi lưu trữ các bản sao và điểm khôi phục dữ liệu được bảo vệ. Chúng ta cần có ít nhất một đĩa trong kho lưu trữ này để bắt đầu quá trình bảo vệ máy chủ.
Nếu có một đĩa cơ bản, DPM sẽ chuyển nó thành một đĩa động để bổ sung vào kho lưu trữ Storage Pool. Trong DPM Beta2, chúng ta có thể bổ sung thêm bất kỳ đĩa vật lý nào và nó sẽ chỉ sử dụng không gian chưa được chỉ định của đĩa được chọn. Chúng ta sẽ bổ sung đĩa như thể hiện trong hình 2 vào kho lưu trữ DPM.
Hình 2: Đĩa sẽ được bổ sung vào kho lưu trữ
Để bổ sung thêm một đĩa vào kho lưu trữ, bạn thực hiện các bước như sau:
1. Mở Microsoft System Center Data Protection Manager.
2. Trong cửa sổ điều khiển bạn kích vào vùng Management.
3. Trong panel Display, kích tab Disk
4. Trong panel Actions, kích Add.
5. Add Disks to Storage Pool. Trong khung bên trái, tất cả các đĩa có sẵn có thể được sử dụng bởi DPM sẽ xuất hiện ở đây. Kích vào đĩa và kích nút Add -> như trong hình 3. Đĩa này sẽ được chuyển vào khung bên phải và chúng ta có thể thấy được tên đĩa cũng như dung lượng và có dữ liệu trên đĩa hay không. Kích OK.
Hình 3: Chọn một đĩa để bổ sung thêm vào kho lưu trữ
6. Bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy đĩa vừa mới được bổ sung vào kho lưu trữ (hình 4). Chúng ta cũng có thể nhìn thấy trạng thái đĩa, bao nhiêu phần chia cho sự bảo vệ và bao nhiêu không gian trống vẫn chưa được chỉ định và các ấn bản bảo vệ nào được dùng trên đĩa này.
Hình 4: Disk Management với đĩa khởi tạo gần đây sẽ được bổ sung vào kho lưu trữ DPM
Triển khai các tác nhân DPM
Chúng ta hãy cài đặt các tác nhân trên máy chủ được bảo vệ DPM. Cài đặt tác nhân có thể được thực hiện một cách thủ công hoặc thông qua giao diện quản trị DPM. Tác nhân sẽ được cài đặt như một dịch vụ có tên DRMA trên các máy chủ được bảo vệ.
1. Mở Microsoft System Center Data Protection Manager.
2. Trong cửa sổ bạn chọn vùng Management
3. Trong panel Display bạn kích tab Agents
4. Trong panel Actions, kích Install…
5. Chọn một hoặc nhiều máy chủ để cài đặt tác nhân như thể hiện trong hình 5, sau đó kích Next.
Hình 5: Chọn máy chủ để cài đặt tác nhân DPM
6. Enter Credentials. Chỉ định tên, mật khẩu người dùng và miền cũng như với quyền cài đặt trên máy chủ mà DPM Agent sẽ được cài đặt, kích Next.
7. Choose Restart Method. Cài đặt Agent và tự động khởi động lại máy chủ hoặc cài đặt tác nhân và tự khởi động lại máy chủ. Kích Next.
8. Summary. Hợp lệ máy chủ nào sẽ nhận Agent và kích vào Install.
9. Lúc này bạn kích Close, trạng thái cài đặt sẽ được thể hiện như trong hình 6
Hình 6: Tác nhân mới được cài đặt - hợp lệ phiên bản, trạng thái và nhóm của tác nhân
Sử dụng giao diện quản trị DPM 2007
Chúng ta có thể làm việc với DPM thông qua giao diện quản trị hoặc thông qua tiện ích quản lý DPM có cho phép sử dụng PowerShell.
Giao diện quản trị DPM có 5 lĩnh vực khác nhau có thể được quản lý. Các vùng này là: Kiểm tra, bảo vệ, khôi phục, báo cáo và quản lý. Chúng ta sẽ đi vào cụ thể mỗi một vùng để xem có thể thực hiện những gì trong đó.
Giao diện quản trị DPM 2007
Kiểm tra (Monitoring)
Vùng này cho phép chúng tra kiểm tra trạng thái của các hoạt động DPM, nó được chia thành 2 tab khác nhau đó là: Alerts và Jobs.
Alerts: Tab này hiển thị các thông báo về tác nhân, backup và các thủ tục khôi phục. Chúng ta có thể nhóm các cảnh báo này bằng tính năng Group by (hình 07).
Jobs: Hiển thị trạng thái các job và nhiệm vụ có liên quan với chúng. Chúng ta cũng có thể nhóm các job bằng tính năng Group by và Filter names. Các job đã liệt kê trong vùng này được thiết lập một cách tự động trong suốt quá trình tạo nhóm bảo vệ (hình 8).
Hình 7: Các thông báo Active và Inactive DPM
Hình 8: Jobs
Sự bảo vệ (Protection)
Trong vùng này chúng ta có thể quản lý các nhóm bảo vệ, lịch trình bảo vệ, các vị trí đĩa,… Ngoài ra chúng ta cũng có thể đồng bộ và tạo Recovery Point. Có thể xem tất cả các máy chủ trong nhóm bảo vệ (Protection Groups). Có thể kích vào một mục đặc biệt và hợp lệ hóa một số điểm như bao nhiêu điểm khôi phục có sẵn, điểm khôi phục mới nhất, lâu nhất và chỉ ra bao nhiêu không gian đĩa đang tồn tại được sử dụng để bảo vệ mục nào đó như trong hình 9.
Hình 9: Các nhóm bảo vệ
Khôi phục (Recovery)
Trong vùng khôi phục, chúng ta có thể khôi phục dữ liệu đã được bảo vệ bởi các nhóm bảo vệ. Có thể quan sát tất cả các máy chủ và mục được bảo vệ trong một quan cảnh và không cần phải chuyển khỏi màn hình này để thực hiện một thủ tục khôi phục Exchange, SharePoint, SQL hay Windows File Server. Có thể sử dụng lịch biểu để xem ngày và thời gian cụ thể mà chúng ta có một điểm khôi phục có sẵn. Ngoài ra cũng có thể xem phương tiện nào có điểm khôi phục đã được chọn (đĩa hay băng từ) như trong hình 10.
Chúng ta có thể sử dụng tab Search để tìm điểm khôi phục có sẵn bằng các biến như: tên file hoặc thư mục, phạm vi điểm khôi phục và vị trí gốc.
Hình 10: Vùng khôi phục cho phép chúng ta khôi phục dữ liệu từ DPM Agents
Báo cáo (Reporting)
Dịch vụ báo cáo có một số báo cáo cho phép các quản trị viên đo được một số mục như: các thống kê, sự thực thi có thể giúp lập kế hoạch tính toán dung lượng tài nguyên phần cứng. Chúng ta có các báo cáo được liệt kê dưới đây và có thể quan sát trong hình 11.
- Disk UtilizationProtection
- Recovery
- Status
- Tape Management
- Tape Utilization
Hình 11: Các báo cáo có sẵn của DPM
Chúng ta cũng có thể cấu hình các báo cáo được tạo trên một nền tảng thông thường và được gửi đến một địa chỉ email đã được chọn. Kích Report, trên Panel Detail chúng ta có hai tùy chọn: Lịch trình (Schedule) và Email, cả hai đều có các liên kết soạn thảo bên dưới.
Trong Schedule (hình 12), chúng ta có thể cấu hình các tham số báo cáo và tần suất. Ngoài ra cũng có thể định nghĩa bao nhiêu phiên bản sẽ giữ trong history.
Hình 12: Định nghĩa lịch biểu để tạo báo cáo Disk Utilization
Trong tab E-mail, chúng ta có thể định nghĩa ai sẽ nhận báo cáo được lập lịch biểu từ trước. Để bổ sung thêm mail bạn chỉ cần thêm một dấu chấm phẩy giữa các địa chỉ email (hình 13). Chúng ta cũng có thể cấu hình định dạng của file đính kèm sẽ có trong thông báo như HTML, Excel hay PDF.
Hình 13: Chỉ định người sẽ nhận báo cáo
Chúng ta có thể kích chuột phải vào báo cáo và kích view để xem. Bạn có thể xem một báo cáo mẫu trong hình 14.
Hình 14: Báo có đã trích dựa trên DPM Activity - Tạo báo cáo lịch trình
hoặc xem nó trong thời gian thực.
Quản lý (Management)
Trong vùng Management, chúng ta có thể sử dụng các thành phần DPM Server, đây là các thành phần tương tác với máy chủ và lưu trữ dữ liệu. Các mục này là Agents, Disks và Tape library
Sự quản lý các đĩa và tác nhân đã được thực hiện để chuẩn bị DPM cho sử dụng.
Để sử dụng thư viện băng từ đúng cách trong DPM 2007, chúng ta phải bảo đảm thiết bị phải được cấu hình trong phần Device Management. Chúng ta có thể tham khảo danh sách các phần cứng đã kiểm tra với DPM Beta2 ở đây: http://www.microsoft.com/systemcenter/dpm/partners/tapelib.mspx
DPM Management Shell
DPM 2007 có thể được quản lý thông qua Windows PowerShell bằng DPM Management Shell. Trong DPM Management Shell, một số nhiệm vụ không thực thi thông qua giao diện quản trị DPM có thể được thực hiện ở đây. Các kịch bản cũng có thể được tạo để thuận tiện cho các nhiệm vụ hàng ngày. Để xem danh sách tất cả các DPM cmdlet có sẵn, bạn sử dụng: get-DPMCommand.
Hình 15: DPM Management Shell
Một nguồn kịch bản hữu dụng và các mẹo về DPM Management Shell được cung cấp trên blog của đội DPM, bạn có thể tìm thấy chúng ở đây: http://blogs.technet.com/dpm/.
Kết luận
Trong bài này chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn về cách kết thúc quá trình triển khai DPM bằng việc bổ sung thêm một đĩa vào kho lưu trữ và cài đặt các tác nhân trên Windows Server. Trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ giới thiệu cách tạo nhóm bảo vệ và cách khôi phục dữ liệu trong môi trường Microsoft được bảo vệ bởi Data Protection Manager.
Lưu ý:
Bài này được tác giả viết sử dụng DPM 2007 Beta 2. Trong phát hành cuối cùng (RTM) có thể có một số tính năng khác biệt so với những gì chúng tôi giới thiệu trong bài.
Triển khai Data Protection Manager 2007 (Phần 3)
Triển khai Data Protection Manager 2007 (Phần 4)