Lịch sử phát triển các dịch vụ của Google

Sự mở rộng của Google, chủ yếu được thúc đẩy bởi quảng cáo trên web dựa trên từ khóa, đã cung cấp cho công ty một nền tảng vững chắc để cạnh tranh trong các dịch vụ web mới. Một số dịch vụ nhằm mở rộng phạm vi tiếp cận của công ty trên toàn bộ phổ công nghệ, nhưng một số dịch vụ khác, chẳng hạn như Google Maps và YouTube, sẽ tăng cường sự thống trị của công cụ tìm kiếm của Google bằng cách tích hợp trải nghiệm tìm kiếm với dữ liệu người dùng khác, bao gồm định vị địa lý, duyệt web và sử dụng media.

Gmail

Năm 2004, Google bắt đầu cung cấp một tài khoản email miễn phí trên web để chọn những người thử nghiệm "beta" (sản phẩm beta là sản phẩm chưa ở dạng cuối cùng). Dịch vụ, được gọi là Gmail, đã được giới thiệu tới công chúng vào năm 2007 khi vẫn ở giai đoạn beta. Một trong những điểm hấp dẫn chính của Gmail là nó cung cấp cho người dùng một địa chỉ email độc lập với bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) cụ thể nào, do đó giúp việc duy trì một địa chỉ cố định dễ dàng hơn. Ngoài ra, dịch vụ này còn cung cấp một gigabyte (một tỷ byte) dung lượng lưu trữ email miễn phí chưa từng có, mặc dù người dùng cũng được hiển thị các quảng cáo dựa trên những từ khóa mà công cụ tìm kiếm Google tìm thấy trong tin nhắn của họ.

Google sau đó đã mở rộng dung lượng lưu trữ miễn phí cho người dùng lên 7 gigabyte và cho phép người dùng thuê thêm dung lượng. Năm 2007, công ty đã mua lại Postini, một công ty dịch vụ email, với giá 625 triệu USD để cải thiện tính bảo mật của Gmail, đặc biệt là trong nỗ lực đăng ký doanh nghiệp của Google. Năm 2009, Google đã xóa trạng thái beta của Gmail, tăng sức hấp dẫn đối với người dùng doanh nghiệp.

Google Books

Vào đầu những năm 2000, Google đã khởi động dự án thư viện có thể được coi là lớn nhất và đầy tham vọng nhất từng được thực hiện. Google đã lên kế hoạch scan và số hóa tất cả các cuốn sách có sẵn trên toàn cầu để tạo ra thư viện kỹ thuật số toàn diện nhất thế giới. Dự án này, bắt đầu với tên gọi Google Print vào năm 2004, đã trở thành Google Books vào năm 2005.

Trong khi đó, một nhóm tác giả và nhà xuất bản đã đệ đơn kiện để ngăn chặn công ty cung cấp các đoạn trích từ sách có bản quyền của họ trên Internet. Năm 2008, Google đã đạt được thỏa thuận pháp lý trong đó công ty đồng ý trả cho các nhóm 125 triệu USD cho những vi phạm trong quá khứ, mặc dù người dùng có thể tiếp tục đọc miễn phí tới 20% mỗi tác phẩm được Google scan. Để đổi lấy việc cho phép những phần tác phẩm của họ được đọc trực tuyến, các tác giả và nhà xuất bản sẽ nhận được 63% tổng doanh thu quảng cáo được tạo ra từ lượt xem trang tài liệu của họ trên trang web của Google.

Google Books vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng mức độ phổ biến và khả năng áp dụng như dự kiến ​​ban đầu vẫn chưa được chứng kiến. Năm 2015, Google Books ước tính đã số hóa 25 triệu cuốn sách. Một dự án thư viện tương tự, Project Gutenberg, tuyên bố có 70 triệu cuốn sách có sẵn ở dạng kỹ thuật số tính đến năm 2024, trong khi số lượng sách được số hóa trong danh mục của Google Books vẫn chưa được biết đến nhiều.

Google Earth và Google Maps

Google Earth là một dịch vụ lập bản đồ hiển thị hình ảnh 3D chi tiết về nhiều địa điểm khác nhau trên hành tinh. Năm 2004, Google đã mua Keyhole, Inc., một công ty được tài trợ một phần bởi nhánh đầu tư mạo hiểm của Cơ quan Tình báo Trung ương, In-Q-Tel. Keyhole đã phát triển một dịch vụ lập bản đồ trực tuyến mà Google đổi tên thành Google Earth vào năm 2005. Dịch vụ này cho phép người dùng tìm hình ảnh vệ tinh chi tiết của hầu hết các địa điểm trên Trái đất và cũng tạo ra những kết hợp với nhiều cơ sở dữ liệu khác, kết hợp các chi tiết như tên đường, kiểu thời tiết, số liệu thống kê tội phạm, vị trí quán cà phê, giá bất động sản và mật độ dân số vào bản đồ do Google Earth tạo ra.

Trong khi nhiều kết hợp trong số này được tạo ra vì sự tiện lợi hoặc chỉ đơn giản là mới lạ, thì một số khác lại trở thành công cụ cứu sinh quan trọng. Ví dụ, sau cơn bão Katrina năm 2005, Google Earth đã cung cấp lớp phủ vệ tinh tương tác của khu vực bị ảnh hưởng, cho phép lực lượng cứu hộ hiểu rõ hơn về mức độ thiệt hại. Sau đó, Google Earth đã trở thành một công cụ quan trọng trong nhiều nỗ lực phục hồi sau thảm họa.

Năm 2005, cùng lúc với sự ra đời của Google Earth, Google Maps cũng ra đời. Google Maps bắt đầu như một công cụ desktop để điều hướng địa lý, sau đó phát triển thành một ứng dụng điều hướng dựa trên GPS cung cấp chỉ đường theo thời gian thực, từng chặng và có thể truy cập qua thiết bị di động. Mặc dù Google Earth và Google Maps được hình thành như các dự án riêng biệt, quá trình phát triển song song của chúng dựa trên những công nghệ được chia sẻ, một nguyên tắc chính sau này trở thành nền tảng của công ty mẹ của Google, Alphabet Inc., một hoạt động đa công ty con.

Google Video và YouTube

Vào tháng 1 năm 2005, Google đã ra mắt Google Video, cho phép mọi người tìm kiếm văn bản có phụ đề từ các chương trình phát sóng truyền hình. Vài tháng sau, Google bắt đầu chấp nhận các video do người dùng gửi (người gửi đặt giá để người khác tải xuống và xem video). Vào tháng 1 năm 2006, cửa hàng video của Google đã mở, cung cấp nội dung cao cấp từ các công ty media truyền thống như CBS Corporation (chương trình truyền hình) và Sony Corporation (phim ảnh). Vào tháng 6 năm 2006, Google bắt đầu cung cấp nội dung cao cấp miễn phí nhưng có quảng cáo.

Tuy nhiên, bất chấp mọi lợi thế về tiếp thị, Google vẫn không thể vượt qua được công ty dẫn đầu mới nổi trong lĩnh vực video trực tuyến, YouTube. Sau khi ra mắt vào năm 2005, YouTube nhanh chóng trở thành trang web yêu thích của người dùng để upload lên các file video nhỏ, một số trong đó đã thu hút hàng triệu người xem. Không thể tạo ra bất kỳ số lượng lượt upload và người xem nào gần bằng, Google đã mua YouTube vào năm 2006 với giá 1,65 tỷ USD cổ phiếu. Tuy nhiên, thay vì hợp nhất các trang web, Google vẫn tiếp tục hoạt động của YouTube như một thực thể riêng biệt. Năm 2012, Google đã đóng cửa Google Video và chuyển video từ đó sang YouTube.

Tính đến năm 2023, YouTube là nền tảng mạng xã hội lớn thứ hai trên thế giới, sau Meta (trước đây là Facebook) với ước tính 2,5 tỷ người dùng trên toàn thế giới. Doanh thu quảng cáo toàn cầu cùng năm đó đạt 31,51 tỷ USD.

Google Apps và Chrome

Năm 2006, trong những gì nhiều người trong ngành coi là đòn mở màn cho cuộc chiến với Microsoft, Google đã giới thiệu Google Apps - phần mềm ứng dụng do Google host chạy qua trình duyệt web của người dùng. Các chương trình miễn phí đầu tiên bao gồm Google Calendar (chương trình lập lịch), Google Talk (chương trình nhắn tin tức thời) và Google Page Creator (chương trình tạo trang web). Loại triển khai này, trong đó cả dữ liệu và chương trình đều nằm ở đâu đó trên Internet, sau này được gọi là điện toán đám mây.

Từ năm 2006 đến năm 2007, Google đã mua hoặc phát triển nhiều chương trình kinh doanh truyền thống (trình xử lý văn bản, bảng tính và phần mềm thuyết trình) cuối cùng được gọi chung là Google Docs. Giống như Google Apps, Google Docs được sử dụng thông qua trình duyệt kết nối với dữ liệu trên máy của Google. Năm 2007, Google đã giới thiệu Phiên bản Premier của Google Apps bao gồm 25 gigabyte dung lượng lưu trữ email, các chức năng bảo mật từ phần mềm Postini mới mua lại và không có quảng cáo.

Theo thời gian, Google Apps đã trải qua nhiều lần chuyển đổi (như GSuite năm 2016), đỉnh cao là sự phát triển của Google Workspace năm 2020. Google Workspace là một bộ sưu tập lớn các sản phẩm điện toán đám mây, năng suất và cộng tác bao gồm Gmail, Danh bạ, Lịch, Meet và Google Drive (để lưu trữ kỹ thuật số) cùng nhiều ứng dụng khác.

Năm 2008, Google đã phát hành Chrome, một trình duyệt web có công cụ JavaScript tiên tiến phù hợp hơn để chạy các chương trình trong trình duyệt. Năm sau, công ty đã công bố kế hoạch phát triển một hệ điều hành nguồn mở, được gọi là Chrome OS. Các thiết bị đầu tiên sử dụng Chrome OS được phát hành vào năm 2011 và là những máy tính xách tay nhỏ gọn có tên là Chromebook. Chrome OS, chạy trên Linux kernel, yêu cầu ít tài nguyên hệ thống hơn hầu hết các hệ điều hành vì nó sử dụng điện toán đám mây. Phần mềm duy nhất chạy trên thiết bị Chrome OS là trình duyệt Chrome, tất cả các ứng dụng phần mềm khác đều do Google Apps cung cấp.

Năm 2012, Chrome đã vượt qua Internet Explorer (IE) của Microsoft để trở thành trình duyệt web phổ biến nhất và tính đến năm 2020, Chrome vẫn duy trì vị trí dẫn đầu so với IE, Edge của Microsoft (trình thay thế IE), Firefox của Mozilla Corporation và Safari của Apple Inc.

Hệ điều hành Android và sự gia nhập vào thị trường điện thoại thông minh

Sự gia nhập của Google vào thị trường hệ điều hành di động béo bở, thông qua việc mua lại Android Inc. vào năm 2005, khi đó công ty này chưa phát hành bất kỳ sản phẩm nào. Hai năm sau, Google công bố thành lập Open Handset Alliance, một tập đoàn gồm hàng chục công ty công nghệ và điện thoại di động, bao gồm Intel Corporation, Motorola, Inc., NVIDIA Corporation, Texas Instruments Incorporated, LG Electronics, Inc., Samsung Electronics, Sprint Nextel Corporation và T-Mobile (Deutsche Telekom).

Tập đoàn này được thành lập nhằm mục đích phát triển và quảng bá Android, một hệ điều hành nguồn mở miễn phí dựa trên Linux. Chiếc điện thoại đầu tiên sử dụng hệ điều hành mới là T-Mobile G1, được phát hành vào tháng 10 năm 2008, mặc dù điện thoại chạy Android thực sự cần mạng không dây thế hệ thứ ba (3G) mạnh hơn để tận dụng tối đa tất cả các tính năng của hệ thống, chẳng hạn như tìm kiếm Google một chạm, Google Docs, Google Earth và Google Street View.

Năm 2010, Google đã tham gia cạnh tranh trực tiếp với iPhone của Apple bằng cách giới thiệu điện thoại thông minh Nexus One. Được đặt biệt danh là "Điện thoại Google", Nexus One sử dụng phiên bản Android mới nhất và có màn hình hiển thị lớn, sống động, thiết kế đẹp mắt và hệ thống nhắn tin biến giọng nói thành văn bản dựa trên phần mềm nhận dạng giọng nói tiên tiến. Tuy nhiên, việc thiếu hỗ trợ gốc cho đa chạm - một tính năng gõ và điều hướng do Apple tiên phong cho phép người dùng linh hoạt hơn khi tương tác với màn hình cảm ứng - được coi là một nhược điểm khi so sánh với các điện thoại khác cùng loại. Bất chấp những nhược điểm được nhận thấy của Android so với iOS trên điện thoại thông minh của Apple, đến cuối năm 2011, Android đã dẫn đầu ngành công nghiệp điện thoại di động với 52% thị phần toàn cầu, gấp hơn 3 lần so với iOS.

Vào năm 2010, các đối tác phần cứng của Google cũng bắt đầu phát hành máy tính bảng dựa trên hệ điều hành Android. Sản phẩm đầu tiên bị chỉ trích vì hiệu suất kém, nhưng đến cuối năm 2011, máy tính bảng chạy Android đã chiếm ưu thế so với Apple iPad cực kỳ phổ biến. Trong số 68 triệu máy tính bảng ước tính đã được xuất xưởng trong năm đó, 39% chạy Android, so với gần 60% là iPad.

Google buộc phải đấu tranh với các đối thủ cạnh tranh về Android tại tòa án cũng như trên thị trường. Ví dụ, vào năm 2010, Oracle Corporation đã kiện Google đòi bồi thường thiệt hại 6,1 tỷ USD, với cáo buộc Android đã vi phạm nhiều bằng sáng chế liên quan đến ngôn ngữ lập trình Java của Oracle. (Sau hai năm ra tòa, cuối cùng Google đã thắng kiện.) Thay vì tấn công trực tiếp Google, Apple đã kiện các nhà sản xuất điện thoại thông minh Android, chẳng hạn như HTC, Motorola Mobility và Samsung, vì cáo buộc vi phạm bằng sáng chế.

Giám đốc điều hành Apple Steve Jobs đã tuyên bố, "Tôi sẽ phá hủy Android, vì đó là một sản phẩm bị đánh cắp. Tôi sẵn sàng tham gia vào cuộc chiến tranh về vấn đề này". Cuộc chiến bằng sáng chế về hệ điều hành di động dường như không thể giải quyết được, vì các vụ kiện tụng và phản tố được đệ trình với mỗi lần phát hành phiên bản mới. Nhưng tính đến năm 2023, Android chiếm 70,8% thị phần điện thoại thông minh, trong khi Apple giữ vị trí thứ hai với 28,4%.

Mạng xã hội và Google+

Google đã chậm trễ trong việc nhận ra sự phổ biến và tiềm năng quảng cáo của các mạng xã hội như Facebook và Twitter. Nỗ lực đầu tiên của họ trong việc tạo ra một mạng xã hội là Google Buzz, bắt đầu vào năm 2010 và đóng cửa chưa đầy hai năm sau đó. Mạng này chỉ giới hạn cho những người dùng có tài khoản Gmail và nó đã tạo ra các vấn đề về quyền riêng tư bằng cách đưa ra cài đặt mặc định cho phép bất kỳ ai cũng có thể xem profile của người dùng. Ngay cả trước khi Google Buzz đóng cửa, công ty đã ra mắt Google+ vào tháng 6 năm 2011, lúc đầu chỉ dành cho một lượng người dùng hạn chế và sau đó là cho tất cả mọi người. Trong vòng một năm kể từ khi ra mắt, dịch vụ mạng xã hội này đã thu hút hơn 170 triệu người dùng. Ngược lại, Facebook đã mất 5 năm để đạt được 150 triệu người dùng.

Tuy nhiên, Google+ đã phải đối mặt với một đối thủ đáng gờm là Facebook, mạng xã hội này đã có khoảng 900 triệu người dùng vào giữa năm 2012. Người dùng Facebook dành nhiều thời gian hơn trên trang web của họ, trung bình 6 đến 7 giờ mỗi tháng, trong khi người dùng Google+ trung bình chỉ dành hơn 3 phút mỗi tháng. Vì Facebook không cho phép phần mềm lập chỉ mục web của Google xâm nhập vào máy chủ của mình, nên Google không thể đưa mạng xã hội khổng lồ này vào kết quả tìm kiếm của mình, do đó mất dữ liệu có giá trị tiềm tàng từ một trong những mạng có lưu lượng truy cập nhiều nhất trên Internet.

Tuy nhiên, công ty dường như hoàn toàn ủng hộ Google+. Nhận thấy giá trị của game trong việc giữ chân người dùng trên các mạng xã hội, công ty đã nhanh chóng phát hành một khu vực game cho dịch vụ này. Công ty cũng phát triển các tính năng sáng tạo không có trên Facebook. Ví dụ, với Hangouts, người dùng có thể ngay lập tức tạo các cuộc họp video miễn phí cho tối đa 10 người. Công ty cũng đã thêm những trang Google+ để các doanh nghiệp tiếp thị sản phẩm và thương hiệu của họ. Tuy nhiên, Google+ chưa bao giờ thay thế được Facebook và dịch vụ này đã ngừng hoạt động vào năm 2019.

Google trở thành công ty con của Alphabet

Vào tháng 8 năm 2015, Google đã được tổ chức lại thành công ty con của công ty mẹ Alphabet Inc. Tìm kiếm trên Internet, quảng cáo, ứng dụng và bản đồ, cũng như hệ điều hành di động Android và trang web chia sẻ video YouTube, vẫn thuộc về Google. Các liên doanh riêng biệt của Google - như công ty nghiên cứu về tuổi thọ Calico, công ty sản phẩm gia dụng Nest và phòng nghiên cứu Google X - đã trở thành những công ty riêng biệt thuộc Alphabet. Page trở thành CEO của Alphabet, Brin trở thành chủ tịch và Schmidt trở thành chủ tịch điều hành. Sundar Pichai, phó chủ tịch cấp cao phụ trách sản phẩm, đã trở thành CEO mới của Google.

Việc thành lập Alphabet với tư cách là công ty mẹ nhằm mục đích thúc đẩy đổi mới công nghệ trên nhiều ngành và lĩnh vực, đồng thời cho phép các phân khúc công ty theo đuổi những cơ hội mới với sự hỗ trợ của các nguồn lực và sự hợp tác chung.

Alphabet một lần nữa tái cơ cấu vào năm 2017 để thành lập một công ty mẹ trung gian, XXVI Holdings, và chuyển đổi Google thành công ty trách nhiệm hữu hạn (LLC). Năm 2018, Schmidt từ chức chủ tịch điều hành. Nhiều thay đổi tiếp theo diễn ra vào năm 2019 khi cả Brin và Page đều rời khỏi vị trí chủ tịch và giám đốc điều hành. Tuy nhiên, cả hai đều vẫn nằm trong ban giám đốc của Alphabet. Pichai trở thành giám đốc điều hành của công ty mẹ trong khi vẫn giữ chức vụ đó tại Google.

Thứ Sáu, 27/09/2024 11:05
46 👨 8.605
0 Bình luận
Sắp xếp theo
    ❖ Chuyện công nghệ