Tất cả các bản Service Pack cho Windows dường như xuất hiện và được sự chấp nhận của người dùng theo một cách thức khá giống nhau. Sau khi chúng được tung ra thị trường, những gì xảy ra ngay sau đó có thể nói một cách ngắn gọn: phần lớn các doanh nghiệp vẫn còn lưỡng lự trong việc cài đặt bản sửa lỗi bởi vì họ không muốn là người đầu tiên phát hiện những vấn đề trục trặc và chuốc lấy sự phiền toái phải khắc phục chúng.
Sau khi bản Service Pack đã được tung ra thị trường, quá trình chấp nhận của người sử dụng thường sẽ trải qua 4 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là khi những người sử dụng sớm nhất (bao giờ cũng vậy đây là những người sử dụng có kinh nghiệm) mày mò chơi trò may rủi với chiéc máy tính của mình. Sau đó họ thường đưa ra những thông báo đại loại như: “Tốt, bản này dùng được. Tôi cài đặt và thấy mọi chuyện đều ổn”.
Những thông điệp tích cực có đó sẽ làm khuấy lên giai đoạn hai, khi có nhiều người hơn, kể cả những người ít kinh nghiệm, muốn cài thử đặt đoạn mã mới. Sự tò mò về đoạn mã mới lan truyền từ người sau sang người kia rất nhanh, đặc biệt là trong giới những người được tiếp xúc thường xuyên với máy tính.
Giai đoạn thứ ba bắt đầu khi có một số đông người hơn cài đặt đoạn mã mới trên nhiều loại phần cứng khác nhau và đây cũng là lúc những gì tồi tệ nhất có thể xuất hiện. Một số “chứng bệnh” do bản Service Pack gây ra, có thể chỉ ảnh hưởng chỉ tới một số ít người sử dụng (vài trăm hay vài ngàn người), nhưng lại được miêu tả hết sức khác nhau và có thể gây nhầm lẫn. Đó cũng là khi bắt đầu nổi lên những đồn thổi về những “tai hại khủng khiếp” của bản Service Pack mới. Các diễn đàn và các nhóm tin trực tuyến, cũng như các bài phê bình trên các tờ báo và tạp chí công nghẹ cũng bắt đầu rùm beng.
Cũng vào lúc đó, Microsoft sẽ phát hành thêm những miếng vá mới để bịt các điểm yếu về an ninh mới được phát hiện. Điều này khơi mào cho giai đoạn 4 khi hàng triệu người, bao gồm nhiều doanh nghiệp, sẽ bắt đầu cài đặt bản Service Pack mới nhất. Đại đa số mọi người không gặp vấn đề gì nghiêm trọng với đoán mã mới. Tất cả sự nghi ngờ, tin đồn tiêu cực của giai đoạn trước đó sẽ không còn hay ít ra là giảm xuống.
Hiện nay, có lẽ cũng ta đang ở vào lúc kết thúc giai đoạn 2, bắt đầu vào giai đoạn 3. Nếu Microsoft làm được “trên mức trung bình” trong WinXP SP2, giai đoạn 3 sẽ không kéo dài. Trái lại, chúng ta sẽ vẫn còn phải nghe nhiều “các câu chuyện đáng sợ” về bản Service Pack mới nhất này.
Tuy nhiên, các chuyên gia vẫn đang nghiên cứu về WinXP SP2. Một số “bí mật” cùng nhiều khía cạch khác của bản Service Pack sẽ được khám phá. Để giúp bạn đọc hiểu rõ những thay đổi lớn ở bản Service Pack mới nhất kể từ hệ điều hành WinXP lần đầu tiên được phát hành vào tháng 10/2001, bài viết sẽ nêu lên một số điểm quan trọng nhất bạn cần biết về bản sửa lỗi này.
1. Bạn nên cài đặt WinXPSP2
Ngay cả khi bạn chưa bao giờ sử dụng máy tính của mình để kết nối với mạng Internet thì sớm hay muộn bạn cũng nên cài đặt bản nâng cấp XP quan trọng này. Nhưng liệu có cần cài đặt SP2 ngay lập tức? Trừ khi bạn là một chuyên gia về Windows hay bạn cài đặt SP2 trên một máy tính không quan trọng lắm, hãy luôn nhớ rằng một số trục trặc đối với máy tính của bạn luôn có thể xảy ra, như lỗi làm cho quá trình cài đặt thất bại, làm máy tính tự khởi động lại hay làm chậm đáng kể tốc độ của máy... Những “chứng bệnh” có thể chỉ xảy ra với một số ít máy PC chạy SP2 nhưng bạn cũng cần phải cân nhắc bởi vì thà chậm 2 hay 3 tháng để nghiên cứu kỹ lưỡng (nhất là khi máy tính của bạn đã được bảo vệ với những phần mềm chống virus mới nhất hay các bức tường lửa có tính năng ưu việt nhất) còn hơn là để những sai hỏng có thể làm ảnh hưởng lớn tới công việc thường ngày của bạn.
Một số điều khác có thể làm phiền tới bạn sau khi cài bản WinXP SP2 là những cảnh báo lặp lại thường xuyên trong Internet Explorer, những vấn đề và cách “cư xử” bất thường của Outlook Express, những trục trặc có thể có trong Windows Media Player. Một số ứng dụng, chẳng hạn các trò chơi nhiều người chơi, có thể không làm việc trơn tru như trước và một số các tính năng bảo mật phiền toái có thể nảy sinh. Tóm lại, có thể có một số thứ gây phiền toái buộc bạn phải “chung sống hoà bình” với nó sau khi cải bản SP2. Đối với một số người, điều này không gây ra vấn đề gì lớn nhưng đối với một số người khác, đó quả là một sự rất khó chịu.
Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ mọi mặt, ta có thể thấy thế giới tính toán Window sẽ tốt hơn, an toàn hơn nếu mọi người đều sử dụng Windows XP SP2. Có một số bất tiện nhưng lợi ích do SP2 mang lại lại còn nhiều hơn. Hơn nữa, nếu SP2 gây ra trục trặc thì bạn vẫn có thể sử dụng tính năng Add Or Remove Program trong Control Panel để loại bỏ bản cài đặt.
2. Tải SP2 về từ trên mạng hay sử dụng phiên bản trên đĩa CD?
Microsoft phân phối SP2 theo một số cách. Bạn có thể sử dụng tính năng Windows Update để cài đặt trực tuyến phiên bản sửa lỗi. Một cách khác, bạn có thể tải về tệp cài đặt có kích thước 266M về máy tính và dùng nó để cài đặt SP2 trên bao nhiêu máy tính tuỳ thích. Địa chỉ tải về tệp cài đặt: http://www.microsoft.com/downloads/details.aspx?familyid=049C9DBE-3B8E-4F30-8245-9E368D3CDB5A.
Cách thứ ba là bạn có thể gửi thư điện tử đặt đĩa CD miễn phí (kể cả phí vận chuyển) trực tiếp tới Microsoft. Microsoft cho biết đĩa CD sẽ tới tay bạn trong vòng từ 4 tới 6 tuần nhưng nhiều người nhận được nhanh hơn nhiều. Đây là địa chỉ của trang Web nơi bạn có thể đặt miễn phí đĩa CD: [url="http://www.microsoft.com/windowsxp/downloads/updates/sp2/cdorder/en_us"]http://www.microsoft.com/windowsxp/downloads/updates/sp2/cdorder/en_us[/url]. Một số nhà xuất bản ở Mỹ, Anh và nhiều nơi khác trên thế giới cũng gửi kèm đĩa CD WinXP SP2 kèm theo các tạp chí của họ như theo một cam kết giữa họ và Microsoft.
Lợi ích lớn nhất khi sử dụng phương pháp cài đặt trực tuyến là khối lượng tải về nhỏ hơn so với việc tải về phiên bản cài đặt. Đó là do tính năng Windows Update chỉ tải về những miếng vá bảo mật mà bạn chưa cài đặt trên máy tính của mình. Kích thước tải về tối thiểu là 75 MB, tuy phần lớn các trường hợp bạn phải tải về nhiều hơn thế. Tuy nhiên, khuyến cáo của tác giả là bạn không nên cài đặt trực tuyến nếu bạn đã có đĩa CD hay phiên bản cài đặt 266 MB của SP2. Những thống kê cho thấy rằng phương pháp này có xu hướng gây lỗi hơn so với phương phát cài đặt từ tệp tin tải về hay trên đĩa CD.
3. WinXP SP2 bao gồm cả WinXP SP1
Bất cứ khi nào một bản Service Pack mới xuất hiện, một trong những câu hỏi nhiều người hỏi nhất là: “Tôi có nên cài tất cả các phiên bản cũ (trong trường hợp này, Service Pack 1 hay Service Pack 1a) trước khi cài đặt Service Pack 2?”. Câu trả lời là “Không”. Bạn không phải cài đặt các phiên bản trước, các bản Service Pack của Window là các “siêu tập hợp” bao gồm tất cả các bản Service Pack trước (cho cùng một phiên bản hệ điều hành) nên bạn không phải lo lắng về vấn đề này.
4. “Trung tâm An ninh” của Windows không phải là yếu tố quyết định
Nhiều vấn đề xung quanh WSC (Windows Security Center) mới của SP2 (như việc không thể làm việc với một số sản phẩm của bên thứ ba, giao diện một chiều của nó, hay việc không cho bạn tắt chế độ bảo vệ) là chủ đề nóng của nhiều cuộc thảo luận. Những điều này có thể sẽ làm bạn nản lòng khi có ý định cài SP2. Tuy nhiên, bạn có thể cấu hình để chỉ sử dụng một số tính năng của WSC và tắt đi các tính năng khác mà không ảnh hưởng nhiều lắm. Nếu bạn giữ nguyên WSC, nên nhớ rằng đó chỉ làm phiền khi bạn không lưu ý xử lý các cảnh báo của nó. Thực sự thì WSC là một chiếc đồng hồ cảnh báo rất có ích trong những trường hợp tường lửa của bạn ngừng hoạt động hay danh sách định nghĩa virus trong các phần mềm chống virus đã lỗi thời. Tóm lại, WSC không phải là một trong những lý do để bạn đưa ra quyết định cài đặt hay không cài đặt SP2. Hiện nay Microsoft đã đưa SP2 và các nhà cung cấp phần mềm bảo mật bên thứ ba cũng đã nâng cấp các sản phẩm của họ để có thể làm việc với WSC.
5. Những trục trặc liên quan tới các ứng dụng
Trước khi cài đặt SP2, bạn nên tìm hiểu dể biết những ứng dụng nào có thể làm việc không hoàn hảo khi cài đặt bản nâng cấp này. Microsoft đã chuẩn bị một danh sách các ứng dụng có thể chạy không ổn định khi bạn cài SP2 tại địa chỉ http://www.support.microsoft.com/default.aspx?kbid=842242&product=windowsxpsp2. Đọc kỹ tài liệu này cần là bước đầu tiên cho bất cứ những ai đang cân nhắc tới việc cài đặt SP2. Microsoft cũng cung cấo tài liệu về những vấn đề liên quan tới SP2 đối với các mạng nhiều người chơi hay trò chơi trực truyến tại trang Web http://www.support.microsoft.com/default.aspx?scid=kb;en-us;875363&Product=windowsxpsp2
6. Information Bar có thể làm phiền bạn với những cảnh báo
Một sự phiền toái khác bắt nguồn từ công cụ Information Bar mới của IE. ấn tượng ban đầu là Information Bar rất thông minh, tự động cảnh báo khi bạn chuẩn bị làm một điều gì đó là IE cho là không nên. Phần lớn các trường hợp bạn có thể chọn để IE ghi nhớ thông tin trong Information Bar, vì vậy có thể giả định là mỗi thông báo chỉ xuất hiện một lần. Nhược điểm là bạn có thể thấy Information Bar tự nhiên xuất hiện, chen ngang những công việc bạn đang làm nhiều lần. Đây có thể trở nên phiền toái, đặc biệt nếu bạn hay truy nhập các trang Web có sử dụng điều khiển Active X hay thường phải tải nhiều tệp tin về máy tính của bạn.
Rất có thể Microsoft đã không đánh giá đúng mức những nhân tố gây phiền toái về lâu dài của một số tính năng bảo mật liên quan tới Information Bar. Có một số tính năng bảo vệ khá phức tạp đan xen nhau trong SP2 yêu cầu người sử dụng phải đáp ứng bằng một quyết định nào đó, ngay cả những việc mà họ đã làm hàng ngày trên Internet. Với “những mối đe dọa tiềm tàng” đến từ các Website bạn tin tưởng, như các site của ngân hàng và các tổ chức tài chính, bạn có thể “dạy” IE bằng cách thực hiện các lựa chọn như “Always Allow” (thường xuyên cho phép). Tuy nhiên, nếu bạn có nhiều máy tính, bạn phải dạy cho từng máy một, không có cách nào cho phép chuyển các “sự cho phép” từ một máy tính này sang một máy tính khác. Vì thế nếu bạn mua một PC mới, bạn phải dạy lại nó từ đầu.
Các công ty bảo mật phần mềm nổi tiếng thế giới như McAfee, Symantec và Zone Labs đã cố gắng rất nhiều để loại bỏ việc phải thường xuyên nhắc nhở người sử dụng về các quyết định liên quan tới bảo mật. Nếu bạn làm phiền người sử dụng với những câu hỏi mà theo họ là không cần thiết, sớm hay muộn họ cũng huỷ cài đặt các phần mềm hay gõ bỏ tính năng bảo vệ. Trong trường hợp của SP2, Microsoft không cho phép người sử dụng kiểm soát nhiều tuỳ chọn bảo mật của trình duyệt và cách duy nhất để bỏ những tuỳ chọn này là huỷ cài đặt SP2.
7. Quá ít lựa chọn với Attachment Manager
Bất kỳ khi nào Microsoft đưa thêm từ “manager” vào tên của một trong những tính năng của nó thì thường điều đó có nghĩa là người sử dụng được trao thêm khả năng kiểm soát. Tuy nhiên, bạn có rất ít khả năng kiểm soát Attachment Manager, một công cụ an ninh tệp nhằm ngăn chặn hay nhắc nhở bạn hãy nghĩ cho kỹ khi quyết định mở một tệp bị nghi vấn. Bạn có rất ít lựa chọn an ninh khi bạn tải tệp tin đính kèm của Outlook Express, tải về từ một liên kết trên trang Web mở với Internet Explorer hoặc các tệp tin nhận qua Windows Messenger. Rất có thể tệp gửi kèm có chứa các virus độc hại. Không có cách thực sự nào để có thể cấu hình hay tắt Attachment Manager, nó cũng không học từ những lựa chọn bạn đã thực hiện. Để có thêm thông tin về nó, bao gồm cả danh sách các kiểu tệp mà nó sẽ bảo vệ bạn trách các nguy cơ, hãy đọc bài viết tại địa chỉ http://www.support.microsoft.com/default.aspx?scid=kb;en-us;883260.
Nói tóm lại, SP2 có cả những ưu và những điểm chưa hoàn thiện. Tuy nhiên, SP2 vẫn là một bước nâng cấp đáng kể cho WinXP. Khi bạn cài đặt nó, bên cạnh những mặt tốt bạn sẽ phải chấp nhận một số mặt chưa được hoàn thiện. Với các hiểu biết về ưu và nhược điểm của SP2, bạn sẽ yên tâm hơn khi cài đặt bản nâng cấp mới này.
Nguyễn Hữu Tòng