Quản trị mạng - Trong nhiều năm qua có rất nhiều ý tưởng mà hai nhà cung cấp Microsoft và Apple “học hỏi” từ nhau để đưa vào hệ điều hành riêng của mình. Hệ điều hành Windows 7 tích hợp những tính năng được giới thiệu trên Mac OS X 10.6 Snow Leopard và ngược lại. Do đó rất khó để người dùng Mac và Windows có thể nhận biết hay nhớ được rằng ai thực sự là người đã phát minh ra những tính năng mà họ đang sử dụng.
1. Taskbar – Giống Dock trong Mac
Thanh Taskbar của Windows 7 có “ngoại hình” rất giống với Dock, từ kích thước cho đến những biểu tượng. Cũng như Dock, giờ đây thanh Taskbar là vị trí để khởi chạy các ứng dụng cũng như thu nhỏ các cửa sổ. Người dùng có thể kéo một biểu tượng ứng dụng tới bất kì vị trí nào trên thanh Taskbar và kéo để sắp xếp lại chúng như trên Mac. Trong Windows 7, một khung xuất hiện phía ngoài biểu tượng cho biết chương trình đó hiện đang chạy; Mac OS X 10.6 Leopard sử dụng một dấu chấm trong biểu tượng của ứng dụng đang chạy. Apple phát triển Dock từ NeXtstep OS của Steve Jobs, hệ điều hành này đã lấy Dock từ hệ điều hành Arthur của Acorn được phát hành vào năm 1987.
2. Jump List – Dock Menu trong Mac
Cả Taskbar và Dock đều có menu, nhưng những menu của Windows 7 có chức năng không chỉ giống với hệ điều hành Mac OS X 10.6 Snow Leopard mà còn giống với phiên bản Leopard trước đó. Jump List cung cấp lệnh và khả năng truy cập vào file. Một số loại Jump List (như những Jump List cho iTunes) có nhiều chức năng hơn so với Dock Menu trong Mac OS X. Một số loại khác lại có nhiều chức năng hơn khi sử dụng trong Windows 7. Những ứng dụng trình duyệt Web trong Mac và Windows tích hợp những tính năng khá giống nhau. Trong cả hai hệ điều hành, khi phải chuột đều hiển thị menu này.
3. Aero Peek – Esposé trong Mac
Tính năng Aero Peek của Windows 7 giúp ẩn mọi cửa sổ giống như Esposé lần đầu tiên được giới thiệu trong hệ điều hành Mac OS X 10.3 Panther vào năm 2003. Những phiên bản của cả hai nền tảng này thực hiện những chức năng khác nhau, tuy nhiên Aero Peek và Esposé đều cho phép người dùng ẩn các cửa sổ mở để xem màn hình và nhanh chóng hiển thị chúng trở lại. Aero Peek làm cho các cửa sổ trở nên trong suốt bằng cách xóa bỏ mọi nội dung trên đó, còn Esposé đưa chúng ra khỏi màn hình.
4. File Preview
File Preview xuất hiện trong Windows Vista và Windows 7, bao gồm bảng Preview trong cửa sổ Windows Explorer và Taskbar Preview, tuy nhiên Apple đã sử dụng tính năng này trước Microsoft. Bảng Preview nằm trong cột View của hệ điều hành Mac OS X 10.0 Cheetah được phát hành vào năm 2000. Bảng Windows Preview giờ đây đã có một số tính năng giống với hệ điều hành Mac OS X đó là khả năng chơi nhạc và video, tuy nhiên nó vẫn không hiển thị định dạng văn bản. Hệ điều hành Mac OS X 10.5 Leopard tích hợp thêm Cover Flow View cho phép xem nhanh nhiều Preview, nhưng Preview cơ bản lại là Quick Look, có thể thay đổi kích thước ra toàn màn hình và cho phép người dùng xem mọi trang của tài liệu.
6. Sticky Notes – Stickies trong Mac
7. Saved Searches – Smart Folders trong Mac
8. Tự động chia sẻ mạng xuất hiện trong thanh Sidebar bên trái
9. RSS Feeds
10. Windows Disc Image Burner – Disk Utility trong Mac
1. Taskbar – Giống Dock trong Mac
Thanh Taskbar của Windows 7 có “ngoại hình” rất giống với Dock, từ kích thước cho đến những biểu tượng. Cũng như Dock, giờ đây thanh Taskbar là vị trí để khởi chạy các ứng dụng cũng như thu nhỏ các cửa sổ. Người dùng có thể kéo một biểu tượng ứng dụng tới bất kì vị trí nào trên thanh Taskbar và kéo để sắp xếp lại chúng như trên Mac. Trong Windows 7, một khung xuất hiện phía ngoài biểu tượng cho biết chương trình đó hiện đang chạy; Mac OS X 10.6 Leopard sử dụng một dấu chấm trong biểu tượng của ứng dụng đang chạy. Apple phát triển Dock từ NeXtstep OS của Steve Jobs, hệ điều hành này đã lấy Dock từ hệ điều hành Arthur của Acorn được phát hành vào năm 1987.
2. Jump List – Dock Menu trong Mac
Cả Taskbar và Dock đều có menu, nhưng những menu của Windows 7 có chức năng không chỉ giống với hệ điều hành Mac OS X 10.6 Snow Leopard mà còn giống với phiên bản Leopard trước đó. Jump List cung cấp lệnh và khả năng truy cập vào file. Một số loại Jump List (như những Jump List cho iTunes) có nhiều chức năng hơn so với Dock Menu trong Mac OS X. Một số loại khác lại có nhiều chức năng hơn khi sử dụng trong Windows 7. Những ứng dụng trình duyệt Web trong Mac và Windows tích hợp những tính năng khá giống nhau. Trong cả hai hệ điều hành, khi phải chuột đều hiển thị menu này.
3. Aero Peek – Esposé trong Mac
Tính năng Aero Peek của Windows 7 giúp ẩn mọi cửa sổ giống như Esposé lần đầu tiên được giới thiệu trong hệ điều hành Mac OS X 10.3 Panther vào năm 2003. Những phiên bản của cả hai nền tảng này thực hiện những chức năng khác nhau, tuy nhiên Aero Peek và Esposé đều cho phép người dùng ẩn các cửa sổ mở để xem màn hình và nhanh chóng hiển thị chúng trở lại. Aero Peek làm cho các cửa sổ trở nên trong suốt bằng cách xóa bỏ mọi nội dung trên đó, còn Esposé đưa chúng ra khỏi màn hình.
4. File Preview
File Preview xuất hiện trong Windows Vista và Windows 7, bao gồm bảng Preview trong cửa sổ Windows Explorer và Taskbar Preview, tuy nhiên Apple đã sử dụng tính năng này trước Microsoft. Bảng Preview nằm trong cột View của hệ điều hành Mac OS X 10.0 Cheetah được phát hành vào năm 2000. Bảng Windows Preview giờ đây đã có một số tính năng giống với hệ điều hành Mac OS X đó là khả năng chơi nhạc và video, tuy nhiên nó vẫn không hiển thị định dạng văn bản. Hệ điều hành Mac OS X 10.5 Leopard tích hợp thêm Cover Flow View cho phép xem nhanh nhiều Preview, nhưng Preview cơ bản lại là Quick Look, có thể thay đổi kích thước ra toàn màn hình và cho phép người dùng xem mọi trang của tài liệu.
5. Gadgets – Widgets trong Mac
Windows Vista là phiên bản Windows lần đầu tiên giới thiệu Gadgets gồm các ứng dụng nhỏ thực hiện một chức năng đơn giản, thường là sưu tập những thông tin cụ thể từ Internet. Chúng có giao diện và chức năng giống với Widgets của Mac (được hiển thị trong Dashboard), mà người dùng Mac đã từng được sử dụng trong Mac OS X 10.4 Tiger. Gadgets và Widgets lấy thông tin về thời tiết, thời gian, tỉ giá cổ phiếu,… Widgets thực hiện nhiều chức năng hơn so với Gadgets, nhưng cả hai công cụ này cung cấp nhiều tính năng hơn khi làm việc trên Web. Gadgets của Windows có thể xuất hiện đồng thời trên nhiều cửa sổ khác nhau, trong khi đó Widgets của Mac OS X chỉ xuất hiện ở phía trên của các cửa sổ và sẽ biến mất khi người dùng không click vào Widget.
6. Sticky Notes – Stickies trong Mac
Sticky Notes là một công cụ mới khá hữu dụng trong Windows 7 mặc dù trong những năm gần đây có khá nhiều Sticky Notes nhóm ba. Tuy nhiên Apple đã sử dụng công cụ Stickies trong các hệ điều hành kể từ khi System 7.5 được tung ra vào năm 1994. Stickies của Mac cũng có chức năng kiểm tra lỗi chính tả và định dạng văn bản.
7. Saved Searches – Smart Folders trong Mac
Smart Folders lần đầu tiên được giới thiệu trong hệ điều hành Mac OS X 10.4 Tiger được phát hành vào đầu năm 2005 thực ra là các folder ảo hiển thị kết quả tìm kiếm. Microsoft đã sử dụng ý tưởng này và phát triển tính năng Saved Searches trong Windows Vista. Trong những phiên bản hiện tại của Mac và Windows, cả hai công cụ này có chức năng tương tự nhau. Cả hai công cụ này đều nằm trong bảng bên trái của cửa sổ và hoạt động giống như các folder.
8. Tự động chia sẻ mạng xuất hiện trong thanh Sidebar bên trái
Trong hệ điều hành Mac OS X 10.5 Leopard, Apple bắt đầu đặt công cụ chia sẻ file mạng tự động phát hiện bên trái thanh Sidebar. Chắc hẳn Microsoft thấy hứng thú với tính năng này bởi vì tính năng này đã được Microsoft đưa vào Windows Vista và loại bỏ Network Neighborhood được sử dụng trong các phiên bản trước đó.
9. RSS Feeds
Microsoft đã giới thiệu khả năng xem RSS Feeds trong phiên bản Internet Explorer 7 được tích hợp trong Windows Vista. Nhưng ý tưởng về một trình đọc RSS tương thích trong một trình duyệt Web không phải của Microsoft. Apple đã sử dụng tính năng này lần đầu tiên trong Safari được tích hợp trên Mac OS X 10.4 Tiger. Ngoài ra Mail của Apple cũng hỗ trợ RSS.
10. Windows Disc Image Burner – Disk Utility trong Mac
Trước phiên bản Windows 7, người dùng phải sử dụng một tiện ích nhóm ba để ghi đĩa ISO Image ra đĩa CD hay DVD. Trong Windows 7, người dùng chỉ cần click đúp vào một file ISO để khởi chạy Windows Disc Image Nurner. Đây là một tính năng khá hữu dụng, tuy nhiên Disk Utility của Mac đã có được khả năng ghi cũng như tạo Disk Images từ trước khi Mac OS X được giới thiệu tới người dùng.