Nhà toán học lừng danh Alfred North Whitehead đã từng nói “Nghệ thuật phát triển là giữ vững trật tự trong thay đổi và đảm bảo thay đổi trong trật tự”.
Trong bản chất của hoạt động kinh doanh ngày nay thay đổi là một hằng số bất biến duy nhất. Các tổ chức, từ nhà nước đến tư nhân, đều đang phải đối mặt với những thay đổi do tái cơ cấu, mở rộng hoạt động kinh doanh, cạnh tranh, tác động của công nghệ mới, hợp nhất và mua lại, do hoạt động quản lý điều hành của ngành và chính phủ cũng như hàng loạt nhân tố khác. Thực tế là bất cứ sự thay đổi nào tác động đến tổ chức sẽ gây ảnh hưởng kéo theo tới cấu trúc CNTT. Có thể nói rằng khả năng thích nghi với sự thay đổi của một tổ chức có liên quan trực tiếp tới khả năng thích nghi của hệ thống CNTT với những thay đổi đó. Đã có nhiều trường hợp danh tiếng và giá trị thị trường của các tổ chức bị ảnh hưởng đáng kể khi xảy ra sự cố CNTT bắt nguồn từ việc ứng dụng các hệ thống nghèo nàn, và nâng cấp hệ thống không thành công.
Kể từ lần phát hành hệ thống cơ sở dữ liệu quan hệ thương mại đầu tiên vào năm 1979, cho tới việc hỗ trợ các yêu cầu của cơ sở dữ liệu cực lớn (VLDB) vào cuối thập niên 90, rồi các cơ sở dữ liệu cho môi trường điện toán lưới trong những năm gần đây - ba thập kỷ qua đã chứng kiến nhiều thay đổi quan trọng với nhiều kiến trúc máy chủ mới xuất hiện nhằm hỗ trợ các hệ thống thực hiện những nhiệm vụ then chốt.
Trước kia, khách hàng có ít sự lựa chọn kiến trúc máy chủ hơn khi các máy chủ đa xử lý đối xứng (SMP) gần như được coi là chuẩn mực cho những ứng dụng chạy trên nền tảng UNIX. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của nhiều kiến trúc máy chủ như máy chủ dạng phiến mỏng, máy chủ phân cụm và các hệ điều hành mới như Linux.
Trước đó, việc thay đổi nhà cung cấp máy chủ SMP được thực hiện tương đối đơn giản do việc kiểm chuẩn sẽ được tiến hành nhằm đảm bảo rằng máy chủ mới có thể cung cấp hiệu năng đúng theo yêu cầu. Ngày nay, khi khách hàng muốn chuyển từ kiến trúc UNIX SMP sang kiến trúc Linux chạy trên những máy chủ phiến mỏng phải đối mặt với một nhiệm vụ phức tạp hơn rất nhiều. Khả năng xảy ra lỗi cao hơn và điều này có thể dẫn đến những quyết định gây hậu quả khôn lường.
Các trung tâm dữ liệu đã thay đổi cơ bản trong cách thức nhìn nhận và hoạt động khi điện toán lưới ra đời. Từ những nguồn tài nguyên khác nhau được sử dụng chung cho các máy chủ và kho dữ liệu, các tổ chức tiến hành nhóm các máy chủ tiện ích chi phí thấp và các đơn vị lưu trữ nhỏ lẻ thành một mạng lưới. Những cơ sở dữ liệu phát triển cho môi trường điện toán lưới đã cho phép các tổ chức nâng cấp các mức dịch vụ, giảm thời gian ngắt quãng, sử dụng tài nguyên CNTT hiệu quả hơn trong khi vẫn tăng cường được hiệu năng, khả năng mở rộng và tính bảo mật của những ứng dụng kinh doanh.
Tuy nhiên, việc đảm bảo mục tiêu của các mức dịch vụ vẫn luôn là một thử thách. Người dùng mong muốn truy cập nhanh và an toàn tới các ứng dụng kinh doanh trong suốt 24 giờ/7 ngày và các nhà quản lý CNTT phải thực hiện được điều này mà không phải tăng chi phí cũng như các nguồn lực khác. Cơ sở dữ liệu đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo khả năng sẵn sàng cao. Trong cơ sở dữ liệu thế hệ mới, khả năng thực thi những truy vấn theo thời gian thực trên hệ thống dự phòng vật lý để lập báo cáo, hoặc khả năng thực hiện nâng cấp trực tuyến cơ sở dữ liệu tích lũy (rolling database) bằng cách chuyển đổi tạm thời hệ thống dự phòng vật lý thành dự phòng logic hoặc dự phòng đột xuất để hỗ trợ các môi trường thử nghiệm, đều có thể đảm bảo khôi phục dữ liệu nhanh chóng trong trường hợp xảy ra "thảm họa" CNTT.
Để hiểu tác động của việc Kiểm tra hiệu năng ứng dụng đối với các doanh nghiệp, chúng ta hãy xem xét một vấn đề CNTT cốt lõi đối với các tổ chức trong việc quản lý sự thay đổi. Xuyên suốt vòng đời của bất cứ hệ thống ứng dụng luôn có những sự thay đổi nhưng tác động toàn diện của những thay đổi đó cần phải được đánh giá trước khi đưa ứng dụng vào quá trình sản xuất. Các thay đổi hệ thống phổ biến:
Những cập nhật cho một ứng dụng đòi hỏi ứng dụng đó phải được chuyển từ môi trường kiểm thử sang môi trường sản xuất. Nâng cấp hoặc sửa lỗi cơ sở dữ liệu hoặc hệ điều hành. Các thay đổi đối với giản đồ cơ sở dữ liệu. Các thay đổi trong việc lưu trữ hoặc hệ thống mạng. Thử nghiệm một nền tảng phần cứng tiềm năng mới. Thử nghiệm một hệ điều hành tiềm năng mới.
Với mục đích đưa ra kiến trúc cho quy trình kiểm tra, một loạt các công cụ đã được giới thiệu để giúp khách hàng quản lý tốt hơn quá trình này và cung cấp cho họ khả năng thử nghiệm hiệu năng của ứng dụng. Mặc dù giúp cho quá trình kiểm tra diễn ra dễ dàng hơn, các công cụ này vẫn đòi hỏi khách hàng đầu tư thời gian và công sức đáng kể để nắm bắt được chức năng hoạt động của ứng dụng cơ bản trên các công cụ này trước khi bắt đầu thử nghiệm. Trong đa số các trường hợp, vấn đề quan trọng hơn là mức tải kết quả lớn nhưng ảo.
Cho dù đã có rất nhiều thử nghiệm và chứng nhận - cả về mặt thời gian và chi phí - thì tỷ lệ thành công thường thấp do nhiều vấn đề vẫn bị bỏ sót và hiệu năng ứng dụng có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến những hậu quả tiềm ẩn nghiêm trọng.
Để hỗ trợ khách hàng trong kiểm tra hiệu năng của ứng dụng, các phiên bản cơ sở dữ liệu mới nhất hiện nay được trang bị thêm nhiều chức năng cho phép khách hàng nắm bắt một mức tải có thể ”tái hiện lại” sau đó trên một hệ thống thử nghiệm, để thể hiện hoạt động của ứng dụng trên một môi trường mới. Sự khác biệt chủ yếu trong cách tiếp cận này là tất cả các yêu cầu của khách hàng được định hướng tới cơ sở dữ đều có thể nắm bắt được, do đó, mức tải thực tế được ghi nhận và sau đó tái hiện lại trên một hệ thống thử nghiệm. Bằng cách sử dụng hệ thống lập báo cáo toàn diện có sẵn, quá trình này loại bỏ tất cả những sai sót hoặc các kết quả không mong đợi. Với cải tiến này, các tổ chức sẽ được chuẩn bị tốt hơn để đối mặt với sự thay đổi mà không phải e ngại vấn đề gì.
Sự đổi mới của Cơ sở dữ liệu Oracle trong 30 năm 1979: Phát hành hệ cơ sở dữ liệu quan hệ đầu tiên của thế giới ra thị trường. 1983: Ngành công nghệ thông tin bắt đầu chuyển từ các nền tảng có bản quyền sang các nền tảng mở với một phiên bản cơ sở dữ liệu gọn nhẹ. 1988: Khả năng mở rộng của các ứng dụng cốt lõi trong doanh nghiệp được hỗ trợ với khả năng khóa hàng dữ liệu. 1992: Những chức năng mới của cơ sở dữ liệu như các quy trình lưu trữ, kích hoạt và khả năng tham chiếu mô tả hoàn chỉnh khiến cho cơ sở dữ liệu có thể lập trình được và thực hiện được các quy tắc kinh doanh trong môi trường máy khách/chủ. 1997: Hỗ trợ các yêu cầu của hệ cơ sở dữ liệu cực lớn, chuẩn bị cho sự phát triển ồ ạt về lưu trữ dữ liệu trực tuyến. 1998: Các tính năng mới hỗ trợ vai trò ngày càng lớn mạnh của Internet trong môi trường kinh doanh. 2001: Hỗ trợ Oracle Real Application Clusters và môi trường dự phòng Data Guard tiên tiến. 2004: Giới thiệu cơ sở dữ liệu đầu tiên có thể tận dụng khả năng của các phần cứng và các mảng lưu trữ chi phí thấp trên môi trường điện toán lưới. 2007: Tiếp tục cải tiến - mở rộng các tiện ích của điện toán lưới. |