Giải mã Windows XP

Chỉ cần thực hiện vài tinh chỉnh đơn giản với Registry của Windows XP, bạn có thể tùy biến để hệ điều hành phù hợp hơn với nhu cầu sử dụng. Và nếu đang có ý định nâng cấp lên Windows Vista, đừng quên "ghé mắt" qua phần giới thiệu về chàng "tân binh" mới của Microsoft.

PHƯƠNG THUỐC REGISTRY

Có nhiều cách làm cho Windows hoạt động nhanh hơn, thông minh hơn và an toàn hơn. Tất cả những gì bạn cần làm là đương đầu với hàng loạt thông số cấu hình trong Registry.

Việc chỉnh sửa các thông số Registry đòi hỏi phải được thực hiện hết sức cẩn trọng vì chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể khiến Windows hành xử bất thường, thậm chí không thể đăng nhập được. Do vậy, trước khi tiến hành bất kỳ một chỉnh sửa nào, hãy sao lưu lại cấu hình Registry hiện tại theo các hướng dẫn được trình bày trong bài biết "Chăm sóc và bảo dưỡng Windows Registry" (ID: A0205_90).

Hình 1: Đóng nhanh các ứng dụng bị treo bằng cách nhập vào một giá trị thời gian thấp hơn.
Hình 1: Đóng nhanh các ứng dụng bị treo bằng cách nhập vào một giá trị thời gian thấp hơn.

Ngoài ra, còn một cách khác nhanh hơn: nhấn Start -> Run, gõ vào lệnh regedit và ấn để mở tiện ích Registry Editor. Tiếp đến, chọn mục My Computer trong khung cây thư mục ở cửa sổ bên trái và chọn trình đơn File -> Export, đặt tên và chọn vị trí cần lưu tập tin này (có thể là đĩa CD-RW hay thiết bị lưu trữ di động như USB).

Nếu chẳng may xảy ra sự cố, bạn hãy tham khảo bài viết "Làm thế nào để phục hồi Windows Registry" (ID: A0304_106) để biết cách khắc phục. Cũng trong bài viết này, bạn sẽ được hướng dẫn cách sử dụng các công cụ chỉnh sửa, quản lý Registry của một hãng thứ 3.

TĂNG TỐC TRÌNH ĐƠN

Chỉ cần thực hiện một chỉnh sửa Registry hết sức đơn giản, bạn có thể làm cho thanh trình đơn Start (hay các trình đơn con bên trong) trở nên "linh hoạt" hơn. Hãy mở cửa sổ Registry Editor, tìm và chọn mục HKEY_CURRENT_USER\Control Panel\Desktop (hay HKEY_CURRENT_USER\Control Panel\desktop). Trong khung cửa sổ bên phải, nhấn đúp chuột vào biểu tượng MenuShowDelay và đổi giá trị tại mục "Value data" từ giá trị mặc định là 400 (miligiây) sang một con số khác nhanh hơn, ví dụ 0 chẳng hạn. Tương tự, bạn có thể làm chậm tốc độ xuất hiện của các trình đơn này đến 4.000 miligiây (4 giây) nếu muốn. Sau khi hoàn tất, ấn để kết thúc.


Hình 2: Phân chia rõ ràng hình nền và các biểu tượng.

ĐÓNG NHANH ỨNG DỤNG

Đang cố thoát khỏi một ứng dụng (hay trong vài trường hợp chính là Windows) nhưng bạn buộc lòng phải chờ đợi một hay nhiều ứng dụng khác kết thúc trước. Sau một thời gian chờ đợi, Windows lại tiếp tục mời bạn "ngồi chơi xơi nước" và sau đó hiển thị hộp thoại End Program cho phép bạn ép buộc một (hay nhiều) ứng dụng nào đó phải kết thúc.

Sự nhẫn nại là điều cần thiết, nhưng nếu Windows mất quá nhiều thời gian để đóng những ứng dụng "cứng đầu" trên thì bạn có thể yêu cầu Windows hiển thị hộp thoại End Program sớm hơn so với bình thường. Thực tế, bạn có thể thiết lập để Windows đóng nhanh các ứng dụng đang bị "treo" mà không cần thao tác qua hộp thoại End Program. Tuy nhiên, nên nhớ nếu sử dụng tùy chọn này (không được Windows nhắc nhở), bạn có thể làm hỏng những cài đặt hệ thống do chấm dứt quá nhanh các tiến trình Windows đang được thực thi. Có một biện pháp để giải quyết vấn đề này là tiếp tục sử dụng tùy chọn nhắc nhở và thiết lập thời gian time-out ngắn hơn.

Để Windows tự động đóng các process bị treo, mở tiện ích Registry Editor và chọn mục HKEY_CURRENT_USER\Control Panel\Desktop. Sau đó, nhấn đúp chuột vào biểu tượng AutoEndTasks ở khung cửa sổ bên phải, đổi giá trị ở mục "Value data" sang 1 và ấn . (đổi giá trị này lại 0 nếu muốn quay lại cách thức đóng các ứng dụng đang thực thi một cách thủ công).

Kế đến, nhấn đúp chuột vào biểu tượng HungAppTimeout cũng ở khung cửa sổ bên phải này, chỉnh lại giá trị tại mục "Value data" để thiết lập thời gian (tính bằng đơn vị miligiây, Hình 1). Giá trị mặc định là 5.000 miligiây (5 giây). Để thiết lập thời gian chờ một ứng dụng đóng lại khi Windows kết thúc, bạn nhấn đúp chuột vào biểu tượng WaitToKillAppTimeOut cũng ở khung cửa sổ trên, sau đó thay đổi giá trị mặc định 20.000 miligiây (20 giây) sang con số mà bạn muốn và sau cùng ấn để kết thúc.

Tuy nhiên, ứng dụng không phải là nguyên nhân duy nhất khiến bạn phải chờ đợi trong quá trình Windows kết thúc. Nhiều tiến trình đang thực thi của hệ điều hành (hay còn được gọi là dịch vụ – service) cũng có thời gian kết thúc riêng. Để chỉ định thời gian chờ tối đa trước khi Windows đóng (hay nhắc nhở bạn) các dịch vụ vào thời điểm tắt máy, mở tiện ích Registry Editor, chọn mục HKEY_LOCAL_MACHINE\SYSTEM\CurrentControlSet\Control. Nhấn đúp chuột vào biểu tượng WaitToKillServiceTimeOut ở khung cửa sổ bên phải và đổi giá trị ở mục "Value data" (mặc định là 2.000 miligiây) sang một con số thấp hơn, sau đó ấn để kết thúc. Lưu ý, trong vài trường hợp, những giá trị mới có thể không có tác dụng do một số dịch vụ sẽ tự động tăng giá trị này lên để có đủ thời gian hoàn thành công việc.

ĐỔI KÍCH THƯỚC HÌNH NỀN

Nếu bạn vừa chuyển sang sử dụng một màn hình khổ lớn (wide-screen) thì hình nền (wallpaper) cũ sẽ không còn vừa vặn nữa, hay có lẽ bạn chỉ muốn thực hiện một chỉnh sửa nhỏ trên hình nền hiện có của mình. Để điều chỉnh kích thước hình nền, chọn mục HKEY_CURRENT_USER\Control Panel\Desktop trong tiện ích Registry Editor và nhấn đúp chuột vào biểu tượng WallpaperOriginX ở khung cửa sổ bên phải. Nếu không thấy biểu tượng này, nhấn phải chuột lên khung cửa sổ bên phải và chọn New -> String Value, nhập vào tên WallpaperOriginX và ấn . Sau đó, nhập vào một giá trị (đơn vị tính là pixel) cho vị trí bắt đầu ở hàng ngang (tính từ cạnh trái hình nền) và ấn . Tiếp đến, nhấn đúp chuột vào biểu tượng WallpaperOriginY (nếu chưa có thì thực hiện các bước tạo mới như trên) và nhập vào một giá trị cho vị trí bắt đầu hàng dọc (tính từ cạnh trên hình nền). Nếu như hình nền lớn hơn kích thước màn hình, bạn hãy nhập vào một số có giá trị âm (ví dụ -200 chẳng hạn) để đẩy cạnh trên hay cạnh trái hình nền vào trong.

Để kiểm tra hiệu ứng này, trước hết là bạn hãy thu nhỏ tối đa (minimize) cửa sổ Registry Editor (hay bất kỳ cửa sổ nào đang mở), nhấn phải chuột lên màn hình nền Windows và chọn Properties, sau đó nhấn OK hay Apply để kích hoạt những thông số vừa thay đổi. Lặp lại những bước trên cho đến khi hình nền được hiển thị chính xác trên màn hình (Hình 2). Những cài đặt này cũng có tác dụng với những chế độ hiển thị hình nền có trong Windows.

TÌM KIẾM MỌI TẬP TIN

Khi bạn tiến hành tìm kiếm một tập tin trong Windows (chọn Start -> Search -> For Files or Folders, hay ấn phím trong bất kỳ cửa sổ thư mục nào), Windows đều chỉ tìm kiếm những dạng tập tin mà hệ điều hành này có thể nhận dạng được. Những dạng tập tin không được liệt kê trong danh sách "Registered file types" sẽ bị bỏ qua trong quá trình tìm kiếm (để xem danh sách này, bạn mở Explorer, chọn Tools -> Folder Options và nhấn vào thẻ File Types). Ví dụ, những tập tin với phần mở rộng khá lạ như .xyz chẳng hạn sẽ không được Windows để mắt đến trong quá trình tìm kiếm dù chúng thực sự tồn tại trên máy tính của bạn. May mắn, một chỉnh sửa đơn giản với Registry có thể giúp bạn hóa giải tình trạng này, giúp Windows nhận biết được tất cả mọi tập tin bất kể chúng có phần mở rộng như thế nào. Trong tiện ích Registry Editor, tìm và chọn mục HKEY_LOCAL_MACHINE\SYSTEM\CurrentControlPanelSet\Control\ContentIndex. Sau đó, nhấn đúp chuột vào biểu tượng FilterFilesWithUnknownExtensions ở khung cửa sổ bên phải và đổi giá trị ở mục "Valua data" từ 0 sang 1, cuối cùng là ấn.

Thủ thuật: Để đảm bảo Windows XP tìm kiếm tất cả định dạng tập tin, chọn All Files and Folder trong danh sách thả xuống Type of files ở khung cửa sổ Search Companion (nếu không thấy tùy chọn này, nhấn More Advanced Options). Tiếp đến, đánh dấu chọn các mục Search system folders, Search hidden files and foldersSearch subfolders. Trong Windows 2000, nhấn Search Options, đánh dấu mục Type, và đảm bảo mục All Files and Folders được chọn ở trình đơn thả xuống. Tiếp đến, đánh dấu mục Advanced Options và đảm bảo Search Subfolder được chọn. Cuối cùng, để đảm bảo Windows 2000 có thể tìm kiếm tất cả tập tin hệ thống và tập tin ẩn, chọn Tools -> Folder Options và nhấn vào thẻ View. Trong danh sách Advance settings, chọn Show hidden files and folders, bỏ tùy chọn Hide protected operating system files (Recommended), sau đó nhấn Yes để chấp nhận cảnh báo và cuối cùng nhấn OK để kết thúc.

LỘ DIỆN TÀI KHOẢN QUẢN TRỊ

Thông thường, chỉ có vài người dùng được trang bị những kiến thức rõ ràng và đầy đủ về tài khoản quản trị của Windows XP (tên đầy đủ là "Administrator"). Tài khoản này sẽ không được hiển thị trừ khi máy tính của bạn không có bất kỳ một tài khoản nào khác hay khởi động ở chế độ Safe Mode. Để loại bỏ sự ngụy trang của tài khoản quản trị và bổ sung tài khoản này vào màn hình Welcome khi khởi động Windows XP, bạn chọn mục HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows NT\CurrentVersion\Winlogon\SpecialAccounts\UserList trong tiện ích Registry Editor và nhấn đúp chuột vào biểu tượng Administrator trong khung cửa sổ bên phải. (Nếu không thấy biểu tượng này, nhấn phải chuột lên khung cửa sổ bên trái, chọn New -> DWORD Value, đặt tên là Administrator và ấn ). Sau đó, nhập vào mục "Value data" giá trị là 1 và ấn . Từ lúc này trở đi, khi bạn mở của sổ User Accounts trong Control Panel (chọn Start -> Run, gõ vào lệnh Control userpasswords và ấn ), bạn sẽ thấy xuất hiện tài khoản Administrator. Bạn có thể dễ dàng đổi hình tượng trưng hay mật khẩu cho tài khoản này. Ngoài ra, ở những lần đăng nhập sau, bạn sẽ thấy màn hình Welcome của Windows XP xuất hiện thêm lựa chọn tài khoản Admistrator bên cạnh các tài khoản người dùng khác (Hình 3).

GIÁM SÁT THAY ĐỔI REGISTRY

Nếu bạn muốn biết Windows Registry đã có những thay đổi gì thì tiện ích Regmon chính là công cụ bạn cần (tải về tại www.pcworld.com.vn, ID: 51394). Cửa sổ chính của công cụ này sẽ nhận dạng tất cả những khóa Registry có sự thay đổi, thời điểm và tiến trình (hay phần mềm) nào thay đổi khóa này. Tuy nhiên, chỉ có những người dùng chuyên nghiệp mới có thể hiểu được những thông tin mà Regmon cung cấp, nhưng người dùng có thể sử dụng bộ lọc để giới hạn các báo cáo (chỉ hiển thị những thông tin cần thiết hay có thể hiểu được). Ví dụ, để giám sát những thay đổi do ứng dụng khởi động cùng Windows, bạn chọn Options -> Filter/Highlight. Trong phần Include, nhập vào nội dung HKEY_Current_User\Software\Microsoft\Windows\CurrentVersion\Run; HKEY_Local_Machine\SOFTWARE\Microsoft\Windows\ CurrentVersion\Run. Hay trong phần Exclude, bạn có thể nhập vào đường dẫn đến các khóa mà muốn Regmon bỏ qua (ví dụ HKEY_Current_User\Software\Microsoft\MediaPlayer).

TÌM NHANH REGISTRY

Nếu thường xuyên chỉnh sửa Registry trong Windows 2000 hay Windows XP, bạn có thể lưu lại quá trình tìm kiếm đầy khó khăn những thông số thường dùng bằng cách bổ sung chúng vào trình đơn Favorites của tiện ích Registry Editor. Để thực hiện, nhấn chuột lên khóa Registry cần lưu và chọn Favorites -> Add to Favorites, sau đó đặt tên và cuối cùng nhấn OK. Ở những lần chỉnh sửa Registry sau, để di chuyển nhanh đến khóa Registry này, bạn chỉ cần đơn giản mở tiện ích Registry Editor và chọn mục cần thiết từ trình đơn Favorites.

Hình 3: Tài khoản Administrator sẽ xuất hiện ở màn hình Welcome của Windows XP
Hình 3: Tài khoản Administrator sẽ xuất hiện ở màn hình Welcome của Windows XP

Nếu bạn thường xuyên chuyển đổi giữa 2 cài đặt cho cùng một khóa Registry, bạn có thể tiết kiệm được nhiều thời gian bằng cách lưu mỗi phiên bản (giá trị khá nhau) của một khóa thành một tập tin Registry khác và tạo một shortcut để tải cài đặt này vào Registry.

Trước hết, tìm đến khóa Registry mà bạn cần thực hiện chuyển đổi. Sau đó chọn File -> Export, đảm bảo tùy chọn Selected Brache được đánh dấu, đặt tên và chọn vị trí cần lưu tập tin này và nhấn nút Save. Kế đến, nhấn phải chuột lên tập tin .reg vừa tạo, chọn Edit để mở tập tin này bằng Notepad. Bạn đừng thay dổi bất kỳ nội dung gì ở dòng văn bản thứ 1, dòng trống sau đó cũng như dòng thứ 3 (có các tựa đề được đặt trong dấu ngoặc đơn) mà hãy tìm dòng văn bản chứa thông tin liên quan đến khóa Registry mà bạn cần thay đổi. Hãy giữ nguyên dòng này và xóa tất cả các dòng còn lại bên dưới tiêu đề đặt trong dấu ngoặc đơn để tập tin này không thay đổi những cài đặt khác. Sau đó, chọn File -> Save. Cũng với tập tin này, bạn hãy thay đổi giá trị của khóa Registry vừa tìm được (ví dụ từ "1" thành 0, hay từ "no" thành yes) và nhấn File -> Save as, đặt một tên tập tin mới (nhớ bổ sung phần mở rộng .reg vào cuối tên tập tin).

Tiếp đến, bạn phải tạo một lệnh tắt (shortcut) để chèn những cài đặt này vào Registry. Nhấn phải chuột lên màn hình Windows hay trong một thư mục và chọn New -> Shortcut. Trong hộp thoại văn bản vừa xuất hiện, nhập vào lệnh regedit /s và đi ngay sau đó một khoảng trắng là đường dẫn đến tập tin .reg vừa tạo (ví dụ regedit /s testregistry "C:\My Documents\reg1.doc", Hình 4). Sau đó, nhấn Next, đặt tên cho shortcut này và chọn Finish. Lặp lại các bước trên cho tập tin .reg thứ hai.

Hình 4: Dễ dàng tạo một shortcut để chuyển đổi giữa 2 cài đặt Registry.

Từ đây trở đi, bất cứ khi nào cần chuyển đổi giá trị của một khóa Registry, tất cả những gì bạn cần làm là kích hoạt shortcut vừa tạo ở trên. Để khôi phục lại trạng thái cũ, hãy kích hoạt shortcut thứ 2. Bạn có thể đặt những shortcut này vào trình đơn Start hay thanh QuickLaunch hay các thanh công cụ khác. Ngoài ra, để tạo phím tắt cho mỗi tập tin, nhấn phải chuột lên biểu tượng shortcut đó và chọn Properties, gõ vào tổ hợp phím tắt theo ý riêng của bạn vào mục "Shortcut key" ở nhãn Shortcut, cuối cùng nhấn OK.

ĐỔI TIÊU ĐỀ TRÌNH DUYỆT

Mặc định, thanh tiêu đề của trình duyệt Internet Explorer sẽ hiển thị tên website mà bạn đang truy cập và theo sau đó là câu "Microsoft Internet Explorer", trong vài trường hợp có thể là tên công ty hay tên nhà cung cấp dịch vụ ISP. Để thay đổi dòng thông tin quen thuộc này, tìm đến mục HKEY_CURRENT_USER\Software\Microsoft\Internet Explorer\Main trong tiện ích Registry Editor và nhấn đúp chuột vào biểu tượng Windows Title ở khung cửa sổ bên phải. (Nếu không thấy khóa này, nhấn phải chuột lên cửa sổ bên trái và chọn New -> String Value, đặt tên Windows Title, sau cùng là ấn ). Tiếp đến, nhập vào nội dung mà bạn muốn được xuất hiện trên thanh tiêu đề của trình duyệt (hay không nhập gì nếu chỉ muốn tên website được hiển thị). Khi nạp lại Internet Explorer, bạn sẽ thấy sự thay đổi (Hình 5).

Hình 5: Thay đổi nội dung thanh tiêu đề của trình duyệt IE.
Hình 5: Thay đổi nội dung thanh tiêu đề của trình duyệt IE.

SAO LƯU REGISTRY

Việc sao lưu Registry sẽ giúp bạn an toàn hơn trong quá trình thay đổi những thông số cài đặt đầy rắc rối hay khi cài đặt và sử dụng các phần mềm khác. Tiện ích miễn phí ERUNT (Emergency Recovery Utility NT) cho phép dễ dàng sao lưu các thông số Registry trong Windows 2000 và Windows XP, bạn chỉ cần xác định nơi cần đặt dữ liệu sao lưu. Bạn có thể thiết lập để tiện ích tạo bản sao lưu mỗi khi khởi động Windows. Mỗi thư mục sao lưu đều đi kèm một chương trình khôi phục đơn giản. Ngoài ra, ERUNT còn đi kèm tiện ích NT Registry Optimizer có khả năng cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống bằng cách loại bỏ các vùng dữ liệu bị phân mảnh xuất hiện trong quá trình cài đặt và gỡ bỏ các ứng dụng. Cả hai tiện ích này có thể tải về từ www.pcworld.com.vn, ID: 51392.

CHIA SẺ REGISTRY

Khả năng gửi những thay đổi Registry cho người dùng khác cho phép bạn thiết lập tất cả máy tính trong mạng có cùng cấu hình mà không cần sử dụng đến các công cụ quản trị nâng cao của Windows. Một biện pháp để thực hiện điều này là trích xuất (export) một hay nhiều tập tin .reg, nếu cần thiết bạn có thể chỉnh sửa chúng bằng tiện ích Notepad. Sau đó, bạn có thể lưu các tập tin .reg này trên máy chủ, hay gửi chúng qua email cho những người dùng cần đến những thông số cài đặt này. Người nhận có thể nhấn đúp chuột các tập tin .reg trên (hay nhấn phải chuột lên từng tập tin và chọn Merge), nhấn Yes khi được yêu cầu.

Khi tiến hành chỉnh sửa Registry theo cách này, bạn phải đảm bảo những cài đặt này không quá "đặc biệt" cho máy tính. Những chỉnh sửa liên quan đến Windows có thể xem là một "ván bài" đầy may rủi để giúp máy tính vận hành "mạnh mẽ” hơn, tuy nhiên những thay đổi khóa Registry cho phần cứng và ứng dụng xác định chỉ có tác dụng trên những máy tính có cấu hình tương tự. Cuối cùng, hãy luôn chắc chắn là đã tiến hành sao lưu Registry của hệ thống trước khi bạn thay đổi bất kỳ thông số Registry nào.

ĐÓN CHÀO VISTA

Giao diện mới chỉ là phần mở đầu, còn sự cải tiến về bảo mật và hiệu quả hoạt động chính là những điểm nổi bật được dự đoán sẽ có mặt trong phiên bản Windows tiếp theo. Theo đó, Vista sẽ trở thành phiên bản Windows nhanh nhất, an toàn nhất và đáng tin cậy nhất trong thập kỷ này. Hầu hết mọi thành phần dự kiến có mặt ở phiên bản cuối đã xuất hiện trong phiên bản Beta 2 được giới thiệu vào tháng 12 vừa qua (dù chưa thật hoàn hảo).

Bảo mật là lý do chính thúc đẩy hầu hết người dùng Windows sẽ tiến hành nâng cấp hệ điều hành ngay khi có cơ hội. Vista tăng cường khả năng chống đỡ của Windows trước các mối đe dọa trực tuyến mà đa phần có khả năng đánh sập Windows XP. Vista sắp xếp hợp lý hơn quá trình khởi động và tắt máy, khai thác sự dồi dào của bộ nhớ RAM trên các máy tính đời mới để tăng tốc độ thực thi các ứng dụng thông qua tiện ích quản lý bộ nhớ Superfetch mới. Hệ điều hành cũng hứa hẹn cung cấp nhiều tính năng hơn, bao gồm khả năng nhận dạng giọng nói. Giao diện Aero sử dụng các tính năng làm mờ (transparency), tạo bóng (shading) và tô màu (color) để cung cấp cho người sử dụng nhiều thông tin hơn cũng như khả năng kiểm soát đến từng biểu tượng, cửa sổ và hộp thoại.

WINDOWS AN TOÀN HƠN

Về cơ bản, Vista an toàn hơn người tiền nhiệm Windows XP. Nếu bạn cài đặt phiên bản đầu của Windows XP trên một máy tính có kết nối Intermet, sâu Blaster có thể khai thác lỗ hổng trên hệ điều hành này để tắt (shutdown) hệ thống của bạn trong tích tắc. Microsoft đã quan tâm nhiều đến vấn đề bảo mật hơn trong phiên bản XP Service Pack 1 và 2, mặc định kích hoạt tính năng tường lửa Windows Firewall và tự động cập nhật.

Hình 1: Chỉ cần nhập vào mật khẩu của một tài khoản quản trị, người dùng thông thường sẽ có khả năng thực hiện các tác vụ đòi hỏi quyền hạn cao.
Hình 1: Chỉ cần nhập vào mật khẩu của một tài khoản quản trị, người dùng thông thường sẽ có khả năng thực hiện các tác vụ đòi hỏi quyền hạn cao.

Vista kiên cường hơn trước các cuộc tấn công từ Internet bằng cách trang bị những công cụ chống spyware và nâng cấp khả năng bảo mật mặc định của trình duyệt Internet Explorer. Mục Spyware Protection trong tiện ích Windows Security Center tiến hành lập các báo cáo bất kể tính năng Windows Defender và tiện ích phòng chống spyware của Vista (trước đây gọi là Microsoft AntiSpyware) đang thực thi. Mục General Security mới có nhiệm vụ theo dõi có hay không sự thay đổi cài đặt bảo mật trong IE được giảm xuống mức không an toàn, hay mở "cửa hậu" để tin tặc tấn công hệ thống. Phiên bản trình duyệt IE trong Vista sẽ không cho phép bạn xem một trang web cho đến khi bạn tăng mức độ bảo mật ở mục Internet Zone đến mức "Medium-High" – tương tự mức "High" trong Windows XP SP2.

Tuy nhiên Vista vẫn bỏ sót một lỗ hổng bảo mật, chí ít là đối với người dùng thông thường. Windows cần có tường lửa có khả năng khóa những luồng dữ liệu không được phép để ngăn chặn virus, spyware, sâu máy tính hay các phần mềm độc hại khác. Giống với Windows XP, tính năng tường lửa ở Vista thực hiện xuất sắc nhiệm vụ ngăn chặn sâu Blaster và những tấn công khác từ bên ngoài. Khi bạn cài đặt một ứng dụng được phép sử dụng các kết nối từ bên ngoài (như trình duyệt hay tiện ích gửi nhận tin nhắn IM), firewall sẽ hỏi bạn cho phép hay ngăn chặn thực hiện kết nối này. Nhưng bạn đừng phạm sai lầm với những yêu cầu cho phép thực hiện kết nối đi ra ngoài.

Hình 2: Máy tính sử dụng Windows Vista có khả năng kiểm soát khởi động và mã hóa đĩa cứng.
Hình 2: Máy tính sử dụng Windows Vista có khả năng kiểm soát khởi động và mã hóa đĩa cứng.

Tính năng tường lửa ở Vista có thể kiểm soát việc những chương trình cá nhân bắt đầu thực hiện các kết nối ra ngoài nhưng tính năng này không dành cho người dùng bình thường. (Microsoft cho rằng chỉ có bộ phận IT mới có lý do để sử dụng cài đặt này). Ngoài ra, với mục Local Security Policy Settings trong cửa sổ tiện ích Administrator Tools, người dùng có thể thiết lập khả năng ngăn chặn các kết nối ra ngoài và tạo sự chấp thuận cho các tiện ích cá nhân. Tuy nhiên, những cài đặt này lại quá "khó hiểu" đối với hầu hết người dùng. Nếu tính năng tường lửa vẫn giữ hiện trạng này trong phiên bản Windows Vista chính thức sắp được ra mắt, thì có lẽ người dùng nên trang bị phần mềm tường lửa của một hãng thứ 3 như ZoneAlarm (miễn phí) của ZoneLabs chẳng hạn.

HẠN CHẾ QUYỀN NGƯỜI DÙNG

Bạn cũng có thể giảm được sự đe dọa từ những phần mềm nguy hiểm bằng cách giới hạn khả năng truy xuất đến các thông số cài đặt hệ thống và thiết bị phần cứng. Hiện tại, Linux, Mac OS, Unix và các hệ điều hành tương tự đều hạn chế sử dụng tài khoản với quyền hạn cao (hay chính xác là tài khoản quản trị) để thực hiện công việc hàng ngày. Bằng cách này, khi một chương trình nào "ngã ngựa" thì sự phá hoại do việc này gây ra sẽ ở mức thấp nhất. Khi có tác vụ đòi hỏi quyền quản trị với một cửa sổ pop-up, bạn chỉ đơn giản nhập vào mật khẩu để thực thi tác vụ đó.

Trình đơn Start mới trong Vista thay thế trình đơn tìm kiếm bằng một hộp thoại tìm kiếm một chạm. Hệ điều hành cũng cung cấp tùy chọn Lock mới, sẽ kích hoạt chương trình bảo vệ màn hình có sử dụng mật khẩu. Nút Power Off ở góc phải bên dưới màn hình kết hợp chế độ ngủ đông trong Windows XP với chế độ chờ an toàn.

Windows cũng cung cấp vài tài khoản cấp thấp hơn nhưng chúng khó sử dụng, đặc biệt khi cần thực hiện các tác vụ đòi hỏi quyền quản trị (ví dụ như cài đặt phần mềm hay thay đổi các thiết lập bảo mật) thì bạn phải thoát khỏi quyền người dùng hiện tại và đăng nhập lại hệ thống với tài khoản quản trị.

Các tài khoản có quyền giới hạn của Vista dễ dàng thay đổi: tài khoản người dùng thông thường (trong Windows XP gọi là tài khoản Limited) và bất kỳ ứng dụng "lừa đảo" nào được thực thi với quyền của tài khoản này vẫn bị ngăn chặn ở nhiều tác vụ nhạy cảm. Nhưng giờ đây, Windows hiện một hộp thoại cho phép bạn nhập vào mật khẩu của tài khoản quản trị để có thể hoàn thành tác vụ (Hình 1). Không may, trong phiên bản Beta 2, dù đã đăng nhập hệ thống với tài khoản quản trị, một hộp thoại tương tự vẫn xuất hiện và yêu cầu bạn xác nhận trước khi thực hiện mỗi tác vụ đòi hỏi quyền hạn cao.

Chế độ đăng nhập bảo mật và tính năng mã hóa đĩa cứng của Windows XP làm khó khăn hơn việc "ngó trộm" dữ liệu trên máy tính. Tuy nhiên, nếu có đủ thời gian và những công cụ cần thiết thì vẫn có thể giải mã toàn bộ dữ liệu trên máy tính. Tính năng Secure Startup của Vista di dời khóa mã hóa khỏi đĩa cứng và lưu thông tin này vào chip bảo mật Trusted Platform Module (TPM) trên bo mạch chủ, trên bút nhớ USB hay đơn giản chỉ là ghi trên giấy.

Hình 3: Phụ huynh có thể kiểm soát những gì con trẻ xem, chơi game và thậm chí thiết lập thời điểm có thể sử dụng máy tính.
Hình 3: Phụ huynh có thể kiểm soát những gì con trẻ xem, chơi game và thậm chí thiết lập thời điểm có thể sử dụng máy tính.

Bạn vẫn có thể mã hóa các ổ đĩa và thư mục như trong Windows XP Professional, nhưng tính năng Secure Startup sẽ đi theo bạn trong suốt quá trình mã hóa và lưu một khóa giải mã 48 bit vào một tập tin trên máy tính khác, bút nhớ USB hay in ra giấy (Hình 2). Sau đó, không ai có thể khởi động được Windows Vista trên máy tính mà không phải truớc tiên là truy xuất qua chip bảo mật TPM (không thể thực hiện điều này khi đĩa cứng được tháo rời khỏi hệ thống), hay gắn bút nhớ USB vào máy tính hay nhập vào khóa 48 bit trực tiếp từ bàn phím. Theo Microsoft, Secure Startup chỉ xuất hiện trong phiên bản Enterprise Edition của hệ điều hành này, giới hạn tính năng cho người dùng công sở.

EXPLORER ĐA NĂNG

Với tiện ích Explorer mới trong Windows Vista, bạn có thể xem nhiều thông tin hơn về các tập tin và thư mục thông qua khung Preview nằm ngang ở phía dưới mỗi cửa sổ thư mục. Bên cạnh kích thước tập tin, ngày tạo tập tin và các thông số khác, bạn còn thấy một danh sách các từ khóa và cấp độ đánh giá mà bạn đã thiết lập. Đối với tập tin nhạc, tên album và thể loại cùng nhiều siêu dữ liệu khác cũng sẽ được hiển thị trong khung cửa sổ này.

AN TOÀN CHO TRẺ NHỎ

Các phiên bản trước đây của trình duyệt Internet Explorer có khả năng kiểm soát và lọc các nội dung không lành mạnh, nhưng Vista mở rộng tính năng này bằng cách cho phép nhà quản trị kiểm soát những gì mà các tài khoản người dùng thông thường (không phải tài khoản quản trị) có thể xem được trên máy tính bất kể đó là trình duyệt, tiện ích gửi nhận tin nhắn IM hay trò chơi.

Hình 4: Vista sử dụng bút nhớ USB để tăng tốc thực thi ứng dụng.
Hình 4: Vista sử dụng bút nhớ USB để tăng tốc thực thi ứng dụng.

Tính năng kiểm soát website trong Windows Vista có khả năng ngăn chặn các trang web có nội dung liên quan đến rượu, thuốc lá, ma túy, bạo lực... cũng như trong các email và tin nhắn dựa trên nền web. Bạn có thể cấm hoặc cho phép những trò chơi dựa trên phân loại Entertainment Software Rating Board, kể cả các trò chơi đã được cài trên máy tính (Hình 3). Hơn thế nữa, các bậc phụ huynh (thường không thể thường xuyên theo dõi mục đích sử dụng máy tính của con trẻ) có thể sử dụng tính năng Parental Control, cho phép xác lập những thời điểm mà một tài khoản có thể sử dụng. Vista thậm chí có khả năng giám sát hoạt động của một tài khoản và tạo báo cáo những gì mà tài khoản này đã thực hiện, ví dụ danh sách các website đã truy cập, thời gian sử dụng của từng ứng dụng cụ thể.

Không may, trong phiên bản Beta 2, Vista không thể ngăn cản người dùng xem một số trang web "đen", cũng như không tạo các báo cáo ghi nhận quá trình lướt web và sử dụng máy tính.

KHỞI ĐỘNG VÀ TẮT MÁY NHANH HƠN

Máy tính hoạt động ngày một nhanh hơn nhưng dường như việc khởi động và tắt Windows ngày càng kéo dài hơn. Vista sẽ tăng tốc quá trình khởi động hệ thống chỉ khi hệ thống của bạn có phần cứng hỗ trợ giao tiếp Extensible Firmware Interface. Dù vậy, hệ điều hành mới này chuyển qua chế độ tiết kiệm điện năng nhanh hơn. Microsoft cho biết khả năng khởi động lại nhanh hơn là nhờ việc Vista loại bỏ các trình điều khiển thiết bị và ứng dụng không thực sự cần thiết.

Hình 5: Windows Media Player 11 với giao diện rõ ràng và đơn giản.
Hình 5: Windows Media Player 11 với giao diện rõ ràng và đơn giản.

Trình đơn Start trong Vista thay thế tùy chọn Turn Off Computer trong Windows XP bằng một nút nhấn mới có khả năng yêu cầu hệ điều hành ghi nội dung hiện tại trong bộ nhớ sang một tập tin trên đĩa cứng và chuyển máy sang chế độ chờ (standby). Không may, khi PCW Mỹ thử nghiệm với phiên bản Beta 2, một thiết bị phần cứng không tương thích làm cho hệ điều hành khởi động lại máy thay vì chuyển sang chế độ chờ. Ngoài ra, một nút nhấn khác cho phép bạn khởi động lại hay tắt máy tính như trong Windows XP, nhưng tùy chọn để chuyển sang chế độ ngủ đông (hibernate) không được hỗ trợ từ phiên bản này.

TĂNG TỐC ỨNG DỤNG

Các phiên bản Windows cũ thường tiến hành nạp trước vào bộ nhớ vài tập tin của một ứng dụng để có thể khởi động nhanh ứng dụng này, nhưng tính năng Superfetch trong Vista xử lý việc này ở một cấp độ khác. Trong khi Windows XP tải trước các tập tin mà một ứng dụng đã mở gần đây vào bộ nhớ trước khi ứng dụng này được thực thi thì tính năng Superfetch theo dõi tất cả ứng dụng mà người dùng đã sử dụng trong một tháng qua và giữ những tập tin được thường xuyên sử dụng nhất luôn có mặt trong bộ nhớ.

Do bộ nhớ máy tính thường có hạn, Vista cho phép sử dụng bút nhớ USB hay đĩa cứng gắn ngoài như không gian lưu trữ Superfetch bổ sung. Chỉ cần cắm một bút nhớ USB vào máy tính, Vista sẽ hỏi bạn muốn sử dụng một phần hay tất cả dung lượng bút nhớ này để tăng tốc độ máy tính (Hình 4). Phân vùng Superfetch mà Vista tạo trên bút nhớ sẽ được mã hóa, tuy nhiên bút nhớ rất dễ bị thất lạc nên người dùng làm việc với những dữ liệu "nhạy cảm" có lẽ không muốn sử dụng biện pháp này. Ngoài ra, kết quả thu được tốt nhất nếu bạn sử dụng bút nhớ tốc độ cao (tốc độ đọc khoảng 30 MB/giây).

REGISTRY WORKSHOP

Nếu thường xuyên phải thực hiện chỉnh sửa Registry, bạn ắt hẳn sẽ nhận ra vài nhược điểm của tiện ích Registry Editor của Windows: đối với người mới bắt đầu sử dụng thì tiện ích này xử lý quá chậm và không cung cấp tùy chọn cho phép phục hồi thao tác trước đó (undo). Tiện ích Registry Workshop (30 USD, tải về bản dùng thử tại find.pcworld.com/51416) sử dụng tài nguyên hệ thống ở mức tối thiểu và qua đó có thể thực hiện tìm kiếm nhanh chóng. Tiện ích cũng có khả năng so sánh các tập tin Registry, cung cấp nhiều cấp undo/redo. Registry Workshop còn có thanh công cụ và có thể mở nhiều tập tin Registry trong giao diện dạng thẻ (tab) để chỉnh sửa các khóa Registry bằng cách kéo thả.

TỰ ĐỘNG NÂNG CẤP

Trong khi Windows XP cho phép bạn nâng cấp các trình điều khiển thiết bị thông qua dịch vụ Windows Update và đó chỉ là những lựa chọn tải về khi bạn ghé qua trang web Windows Update. Vista tự động tải về các trình thiết bị mới và cung cấp cho quá trình cài đặt đã được đồng ý từ phía người dùng. Điều này có thể xem là một tiến trình nâng cấp hiệu quả cho các thiết bị phần cứng không được hỗ trợ trong phiên bản Vista đầu tiên.

Khả năng báo cáo lỗi trong Vista cũng được thực hiện tự động hơn so với trước đây. Khi ứng dụng gặp sự cố, bạn sẽ được hỏi có muốn gửi báo cáo đến Microsoft hay không, nhưng đó không có nghĩa là Microsoft sẽ gửi lại một bản sửa lỗi. Ngược lại, khi Vista gặp phải một lỗi, bạn sẽ được tự quyết định để gửi báo cáo và sẽ nhận được câu trả lời cùng với giải pháp (nếu có).

DỌN DẸP REGISTRY

Hiện tại, có nhiều tiện ích có khả năng làm sạch các cài đặt Registry đã lỗi thời còn sót lại sau khi đã gỡ bỏ cài đặt các ứng dụng như: đường dẫn sai, phần mở rộng tập tin không còn dùng đến, shortcut hỏng, v.v... Một công cụ chỉnh sửa Registry tốt sẽ tiến hành sao lưu trước vì việc "dọn sạch" Registry thường có độ rủi ro cao. Đối với người dùng thông thường, tiện ích miễn phí CCleaner (www.pcworld.com.vn, ID: 51396) có thể là một lựa chọn hợp lý và đáng tin cậy. Tiện ích có thể quét toàn bộ Registry của máy tính và cho bạn tùy chọn xóa bỏ những thứ không cần thiết. Trong khi không có tùy chọn để khôi phục các đối tượng đã xóa thì việc sao lưu tập tin .reg có thể được thực hiện dễ dàng bằng cách nhấn đúp chuột lên tập tin đó.

CCleaner cũng tìm kiếm và dọn sạch tất cả tập tin tạm của Windows và xóa mọi thông tin trong bộ nhớ đệm của trình duyệt và trình đơn Start.Run, danh sách cookie và nhiều thứ khác. Ngoài ra, tiện ích còn chạy các chương trình gỡ bỏ cài đặt và xóa đi các mục còn sót lại. CCleaner còn cho phép bạn lựa chọn và hiển thị danh sách các tập tin sẽ được xóa.

GIAO DIỆN BÓNG BẨY

Giao diện Aero mới của Vista trông mượt mà và ý nghĩa, làm cho Windows và các ứng dụng dễ sử dụng hơn bởi những thành phần trên màn hình có độ sâu, màu sắc sặc sỡ, mịn màng và có độ trong suốt. Đi cùng với giao diện Aero là vài tiện ích mới trông giống các ứng dụng có trong hệ điều hành Mac OS X của Apple.

Tiện ích Windows Media Player 11 có giao diện hợp lý, với khả năng lựa chọn thư viện đơn giản, nút điều khiển lớn và màu sắc sáng (giống với iTunes, Hình 5). Tiện ích quản lý hình ảnh Windows Photo Gallery mới áp dụng cùng giao diện để xem hình ảnh, đơn giản hóa việc in ảnh, ghi lên đĩa DVD hay thực hiện slide-show trên máy tính.

Hiện giờ, Windows Movie Maker có thể ghi phim lên đĩa DVD nhờ chương trình Windows DVD Maker của Vista (tuy nhiên, để hỗ trợ khả năng xem DVD cho tiện ích Windows Media Player, bạn sẽ phải trả tiền tải về codec cần thiết). Vista cũng giới thiệu tiện ích lịch Windows Calender mới, hỗ trợ chuẩn iCal và cho phép bạn thao tác trên web.

Nhìn chung, có thể Windows XP là một hệ điều hành tốt, tuy nhiên với những tính năng bảo mật cải tiến, giao diện mới hấp dẫn hơn và các công cụ hữu ích hơn được hứa hẹn xuất hiện trong Vista thì phiên bản mới này của Windows sẽ còn xuất sắc hơn nữa.

XEM TRƯỚC NỘI DUNG THƯ MỤC

Việc chuyển đổi giữa những ứng dụng đang mở trong Windows Vista sẽ được thực hiện dễ dàng hơn so với các phiên bản Windows trước vì bạn có thể xem hình thu nhỏ (thumbnail) nội dung của từng cửa sổ khi di chuyển chuột qua shortcut trên thanh tác vụ (taskbar). Thậm chí, bạn có thể nhìn thấy phim đang phát hay ứng dụng đang chạy trong cửa sổ thu nhỏ.

Hồng Vy
PC World Mỹ 4/2006

Thứ Năm, 17/01/2019 14:38
31 👨 1.482
0 Bình luận
Sắp xếp theo
    ❖ Tổng hợp