Theo một xếp hạng mới nhất của tạp chí Forbes (Mỹ), Giám đốc điều hành của hãng phần mềm Oracle, Larry J. Ellison đã trở thành người hưởng lương và thưởng cao nhất tại Mỹ trong năm 2007 với khoản thu nhập lên tới 183 triệu USD.
Trên thực tế, số lương chính thức mà Larry J. Ellison được trả là 1 triệu USD nhưng bên cạnh đó ông còn thu về thêm 182 triệu USD từ việc bán quyền mua cổ phiếu thưởng trong năm vừa qua.
Theo bảng tổng kết của Forbes, tổng mức lương và thưởng của các giám đốc điều hành 500 doanh nghiệp hàng đầu tại Mỹ (xếp dựa trên 4 chỉ tiêu chính là doanh thu, lợi nhuận, tài sản và giá thị trường) trong năm 2007 đã giảm khá mạnh, tới 15% so với năm trước đó và chỉ đạt 6,4 tỷ USD, tương đương với mức trung bình 12,8 triệu USD/người. Trong năm 2006, tổng mức lương và thưởng của 500 CEO này của Mỹ bất ngờ tăng mạnh 38%.
Xếp sau Larry J. Ellison là Frederic M. Poses của Trane (với 127 triệu USD); Aubrey K. McClendon của Chesapeake Energy (với 117 triệu USD); Angelo R. Mozilo của Countrywide Financial (103 triệu USD); và Howard D. Schultz của Starbucks (với 99 triệu USD).
Cả 4 giám đốc điều hành nói trên đều kiếm được khoản tiền khổng lồ hầu hết từ việc bán quyền mua cổ phiếu thưởng.
Larry Ellison: “Hãy biến nỗi sợ hãi thành những ưu thế để thành công”
Ảnh: Achievement. |
Lawrence Joseph Ellison sinh ngày 17/8/1944 ở New York, Mỹ. Khi Ellison chào đời, mẹ của cậu mới 19 tuổi và là một phụ nữ độc thân. Lúc được chín tháng tuổi, Ellison bị bệnh viêm phổi và người mẹ đã quyết định giao cậu cho vợ chồng một người chị, sống ở Nam Chicago nuôi hộ. Hai người đã xem Ellison như là con ruột và họ đã nuôi cậu lớn khôn trong căn hộ khiêm tốn chỉ có hai phòng ngủ. Ellison không hề biết mình là con nuôi cho đến khi cậu được 12 tuổi.
Khi còn nhỏ, Ellison học ở trường Trung học Duyên hải miền Nam (South Shore High School). Sau khi tốt nghiệp trung học vào năm 1962, Ellison đăng ký học ở Đại học Illinois, nhưng cuối năm học thứ hai, người mẹ nuôi của Ellison qua đời và cậu phải nghỉ học rồi lại xin vào Đại học Chicago với ý định theo đuổi một tấm bằng vật lý và toán học. Cậu đã học được khá nhiều về lập trình cho máy tính, trở thành một lập trình viên tự do và nhận ra rằng công việc thực tế phù hợp với mình hơn những chương trình mang tính hàn lâm ở giảng đường đại học.
Năm 1966, Ellison quyết định chuyển đến sống ở California. Trong những năm tiếp theo, anh chủ yếu lập trình cho các công ty ở bang này. Mặc dù công việc khá suôn sẻ, lại phù hợp với tính cách và thời gian của Ellison, nhưng động lực lớn nhất của Ellison lúc đó là kiếm thật nhiều tiền để có thể ung dung hưởng nhàn với thú trượt tuyết ở thung lũng Yosemite. Năm 1977, Ellison bắt đầu làm việc cho Công ty Ampex. Một trong những dự án chính của anh tại công ty này là xây dựng cơ sở dữ liệu cho CIA mà phần mềm được đặt tên là Oracle. Nhưng với quyết tâm làm chủ chính mình, không lâu sau Ellison đã cùng với Robert Miner, người quản lý của anh ở Ampex, thành lập một công ty phát triển phần mềm với số vốn ban đầu chỉ có 2.000 USD.
Sau khi đọc một bài viết của E.F. Codd có tựa đề “Một mô hình cơ sở dữ liệu quen thuộc đối với các ngân hàng lưu trữ dữ liệu dùng chung lớn”, Ellison đã có được ý tưởng cho sản phẩm đầu tiên của mình. Codd đã từng làm việc với IBM về ý tưởng phát triển phần mềm ngôn ngữ tư vấn có cấu trúc (SQL). Tuy thành công, nhưng IBM lại không phát hiện được một tiềm năng thương mại nào của phần mềm này trong khi Ellison lại thấy. Cùng với đối tác của mình, Ellison đã xây dựng một chương trình cơ sở dữ liệu tương thích cho cả máy tính chủ và máy tính con. Sau khi đổi tên công ty thành Oracle, Ellison đã tung ra thị trường phần mềm cơ sở dữ liệu mang cùng tên công ty. Chương trình đầu tiên có tên là Oracle 2 dù không hề có Oracle 1 trước đó. Ellison đặt tên như vậy chỉ để gây ấn tượng rằng phần mềm này đã được phát triển khá lâu.
Trong số những khách hàng đầu tiên của Oracle có CIA và Lực lượng không quân. Đến năm 1981, Oracle bắt đầu vụt sáng. IBM đưa phần mềm SQL của Oracle vào sử dụng cho các máy chủ của hãng này. Từ đó, doanh số của Oracle đã tăng gấp đôi mỗi năm suốt bảy năm tiếp theo và trở thành một công ty có giá trị hàng tỉ USD.
Năm 1986, Ellison đưa công ty của mình lên sàn giao dịch chứng khoán. Trong lần bán cổ phiếu ra công chúng lần đầu tiên (IPO), Oracle đã thu được một khoản tiền lời 31,5 triệu USD. Nhưng công ty còn non trẻ này vốn được vận hành bởi một đội ngũ nhân viên cũng còn non trẻ đã rơi vào tình trạng đứng bên bờ vực phá sản vào năm 1990. Lần đầu tiên trong lịch sử kinh doanh của mình, Oracle đã bị lỗ và buộc phải sa thải gần 50% nhân viên. Một sai lầm lớn của Oracle là đã công bố những báo cáo tài chính không đúng với sự thật, thổi phồng doanh thu. Hậu quả là công ty đã phải ra hầu tòa.
Sau khi giải quyết xong nhiều vụ kiện tụng, Oracle gần như bị sụp đổ. Giá trị thị trường của nó đã giảm đến 80% và nhiều nhà phân tích trong ngành đã xóa sổ công ty này. Dẫu vậy, Ellison vẫn tiếp tục theo đuổi lĩnh vực kinh doanh mà mình đã lựa chọn. Ông thay gần như toàn bộ các nhân viên cũ bằng những nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm hơn và thừa nhận rằng Oracle có thể sẽ cần đến sự giúp đỡ của bên ngoài nếu gặp khó khăn.
Lần đầu tiên kể từ lúc thành lập công ty, Ellison đã trao quyền quản lý doanh nghiệp cho các chuyên gia và chỉ tập trung vào lĩnh vực mà ông có thể làm tốt nhất là phát triển sản phẩm. Chỉ trong hai năm sau, phiên bản mới nhất của chương trình cơ sở dữ liệu Oracle đã đem lại cho Ellison thành công lớn và Oracle đã nhanh chóng lấy lại vị trí đứng đầu thị trường của mình. Trong thập niên 1990, Oracle tiếp tục đi từ thành công này đến thành công khác. Chỉ trong một quý của năm 2000, lợi nhuận ròng của Oracle đã tăng gần 76%. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng lớn, các hãng hàng không và các công ty bán lẻ ở Mỹ đều sử dụng phần mềm cơ sở dữ liệu của Oracle.